Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

109 Trang «<90919293949596>»
  • Xem thêm     

    01/03/2017, 10:28:06 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

    Về Phí bảo vệ môi trường:

    - Tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản quy định: “2. Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản theo quy định tại Nghị định này là hoạt động khai thác dầu thô, khí thiên nhiên, khí than, khoáng sản kim loại và khoáng sản không kim loại.”.

    - Tại Khoản 7 Điều 5 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016  quy định: “Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó và trường hợp đất, đá khai thác để san lấp, xây dựng công trình an ninh, quân sự, phòng chống thiên tai, khắc phục, giảm nhẹ thiên tai thì không phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản đó.”.

    Căn cứ quy định nêu trên, Đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình thuộc đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản(nằm trong danh mục Biểu khung mức phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản). Tổ chức, cá nhân khai thác phải khai, nộp phí bảo vệ môi trường, trừ trường hợp:

    Khai thác đất làm vật liệu xây dựng thông thường trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó. Như vậy, trường hợp của bạn nếu Khai thác đất làm vật liệu xây dựng thông thường trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình thì không phải nộp phí bảo vệ môi trường.

    Về Thuế tài nguyên:

    - Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thuế tài nguyên 2009 thì “Người nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên”.

    - Tại điểm 1.6 khoản 1 Điều 10 Thông tư số 152 /2015/TT-BTC ngày 02 tháng 10 năm 2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về Thuế tài nguyên quy định: Miễn thuế tài nguyên đối với đất do tổ chức, cá nhân được giao, được thuê khai thác và sử dụng tại chỗ trên diện tích đất được giao, được thuê; đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình an nin Thông tư số 152 /2015/TT-BTC h, quân sự, đê điều.

    Đất khai thác và sử dụng tại chỗ được miễn thuế tại điểm này bao gồm cả cát, đá, sỏi có lẫn trong đất nhưng không xác định được cụ thể từng chất và được sử dụng ở dạng thô để san lấp, xây dựng công trình; Trường hợp vận chuyển đi nơi khác để sử dụng hoặc bán thì phải nộp thuế tài nguyên theo quy định.

    Căn cứ quy định nêu trên, đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên. Tổ chức, cá nhân khai thác đất để san lấp, xây dựng công trình thuộc diện chịu thuế phải kê khai, nộp thuế tài nguyên theo quy định. Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác đất để san lấp, xây dựng công trình tại chỗ trên diện tích đất được giao, được thuê thì thuộc diện được miễn thuế tài nguyên; nếu đất khai thác được đưa đi trao đổi, bán thu tiền thì tổ chức, cá nhân khai thác phải kê khai nộp thuế tài nguyên theo quy định.

    Về việc sang tên khi mua (nhận chuyển nhượng) đất: Theo thong tin bạn nêu thì việc mua bán phải đo vẽ nên trường hợp này là trường hợp chuyển nhượng một phần thửa đất nên phải đo vẽ. Hồ sơ  

    Hồ sơ hồ sơ xin tách sổ đỏ nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

    Hồ sơ hồ sơ xin tách sổ đỏ bao gồm:

    - Đơn xin tách thửa;

    - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    - Sơ đồ kỹ thuật thửa đất (nếu có yêu cầu);

    Đối với trường hợp tách thửa do chuyển nhượng thì cần thêm:

    - Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

    Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

    - Chứng minh thư, hộ khẩu của hai bên chuyển nhượng, tặng cho (03 bản photo công chứng);

    - Các giấy tờ khác: Đăng ký kết hôn; biên bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng; giấy khai sinh….(nếu có yêu cầu). Biên bản tự chọn vị trí đất ở, đất khuôn viên (đối với những thửa đất có diện tích vượt hạn mức đất ở theo quy định),…

    Như vậy, việc hướng dẫn bạn tự viết và ký hồ sơ và theo quy định người chủ đất phải viết, việc hướng dẫn của cán bộ địa chính là phù hợp quy định trong trường hợp mua bán đất đất đã nêu.

     Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/02/2017, 11:32:57 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Việc bạn tranh chấp đất đai với hộ giáp ranh cho rằng có hành vi lấn chiếm đất thì những người có tranh chấp sẽ có nghĩa vụ chứng minh. Trong trường hợp các bên không thể chứng minh được do không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì tranh chấp được giải quyết theo Điều 91 Nghị định 43/2014/NĐ - CP quy định chi tiết một số điều của Luật đất đai 2013 về Căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất; cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, quyết định công nhận hòa giải thành

    “1. Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau:

    a) Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đất đai đưa ra;

    b) Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương;
    c) Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
    d) Chính sách ưu đãi người có công của Nhà nước;
    đ) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất.
    2. Căn cứ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết việc cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, quyết định công nhận hòa giải thành.”

    Trong trường hợp này bạn có thể làm đơn yêu cầu giải quyêt tranh chấp đến UBND xã. Theo đó cán bộ địa chính xã sẽ đo đạc, xác định diện tích thực tế sử dụng đất đang tranh chấp.

    Việc người bán đất cho bạn đã làm giấy tay để làm chứng cho bên kia là đã bán cho bạn và nếu mà lấy được phần đất của em thì 2 người chia đôi. Người bán đất cho chưa có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn mà chỉ là sự thỏa thuận dân sự của cả hai bên. Trong trường hợp này bạn có thể làm đơn yêu cầu giải quyêt tranh chấp đến UBND xã. Theo đó cán bộ địa chính xã sẽ đo đạc, xác định diện tích thực tế sử dụng đất đang tranh chấp và có chiều hướng giải quyết vụ việc của bạn.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/02/2017, 11:21:09 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 10 Luật đất đai 2013 thì đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm thuộc nhóm đất nông nghiệp.

    Căn cứ vào Khoản 1 Điều 57 Luật đất đai 2013 và Điều 11 Thông tư 02/2015/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất nuôi trồng thủy sản sang đất trồng cây lâu năm thì không cần xin phép cũng như không cần đăng kí biến động đất. Còn đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp thì phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/02/2017, 10:51:21 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Ông B đang sử dụng mảnh đất thuộc quỹ đất công ích của xã nếu không có sự cho phép, thì hành vi đó có thể coi là hành vi chiếm đất. Theo quy định chung thì bạn đã thực hiện hoạt động đó trên cơ sở phần đất lấn, chiếm, mà đó là một hành vi trái pháp luật đất đai ( điều 12, khoản 1,Luật đất đai 2013 có quy định hành vi lấn, chiếm đất là hành vi bị cấm)còn có thể bị phạt hành chính . Hành vi đó bị cấm và trái pháp luật đất đai cho nên Luật đất đai có quy định tại khoản 2 điều 202 Luật đất đai là: “ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời việc chuyển quyền sử dụng đất trái phép, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép; phát hiện, áp dụng biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời việc xây dựng các công trình trên đất lấn, chiếm, đất sử dụng không đúng mục đích ở địa phương và buộc người có hành vi vi phạm khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm”.

    Như vậy, hành vi lấn, chiếm đất là sai, vi phạm pháp luật về đất đai cho nên người lấn chiếm buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất như trước khi vi phạm, người vi phạm sẽ không được bồi thường phần đã tạo lập trên phần đất lấn chiếm trái phép.

    Căn cứ theo Điều 64 Luật đất đai quy định về thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai như sau:

    1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm:
    a) Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm;

    b) Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;

    c) Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;

    d) Đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho;

    đ) Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm;

    e) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;

    g) Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không chấp hành;

    h) Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục;
    i) Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng.

    2. Việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.

    3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

    Khi có hành vi về chiếm đất đai thuộc quỹ đất quản lý của xã, thì Nhà nước sẽ có kế hoạch thu hồi mảnh đất đó vì đất bị sử dụng trái pháp luật và đó là căn cứ để Nhà nước ra quyết định thu hồi.

    Tại Khoản 3, Điều 82 và Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai thì không được hỗ trợ, bồi thường. Theo đó, trường hợp của ông B không thuộc đối tượng được đủ điều kiện được bồi thường về đất. Tuy nhiên trường hợp của ông B cũng có thể được xem xét hỗ trợ theo quy định tại Điều 83, 84 Luật Đất đai 2013.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi  để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    24/02/2017, 09:58:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Đá gà mạng (trái phép) được coi là tội tổ chức đánh bạc và tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Để khởi tố vụ án hình sự về tội tổ chức đánh bạc cần phải căn cứ vào hành vi cấu thành tội phạm quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 về Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như sau:
    “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật  này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,  thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm 
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: 
    a) Có tính chất chuyên nghiệp; 
    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; 
    c) Tái phạm nguy hiểm. 
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”
    Theo như bạn trình bày thì bạn được thuê đang coi máy đá gà mạng dùm ông anh. Mỗi ngày giao cho bạn cầm 30 đến 50 triệu. Tiền đá gà có thể lên đến hàng trăm triêu. Đây được coi là một tình tiết để cấu thành nên yếu tố "quy mô lớn". Tiền bạc hay gì đều là của chủ , bạn chỉ làm công ăn lương. Như vậy, người tổ chức đánh bạc (chủ sòng bạc) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điều 249 BLHS, còn bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội tổ chức đánh bạc. Về trách nhiệm của đồng phạm, Điều 20 BLHS quy định như sau:
    Như vậy, bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội tổ chức đánh bạc, tuy nhiên tùy vào những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng của bạn, Tòa án sẽ ra một hình phạt cụ thể cho bạn.
    Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng  cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
     
  • Xem thêm     

    24/02/2017, 09:21:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Cho e hỏi là vừa rồi e có mua 1 lô đất.và được cấp sổ hồng về quyền sử dụng đất,nhưng trên bìa sổ hồng của e chỉ có ghi họ tên 2 vợ chồng và năm sinh,không có số CMND.Vậy cho e hỏi như vậy có gì sai không ạ.

    Căn cứ theo Tại Điểm a Khoản 1 Điều 5 Thông tư Số 23/2014/TT-BTNMT quy định ghi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau: “Cá nhân trong nước thì ghi "Ông" (hoặc "Bà"), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân (nếu có), địa chỉ thường trú. Giấy tờ nhân thân là Giấy chứng minh nhân dân thì ghi "CMND số:..."; trường hợp Giấy chứng minh quân đội nhân dân thì ghi "CMQĐ số:…"; trường hợp chưa có Giấy chứng minh nhân dân thì ghi "Giấy khai sinh số….";”

    Cũng tại Điểm d Khoản 1 Điều 5 Thông tư Số23/2014/TT-BTNMT quy định: “Trường hợp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của hai vợ chồng thì ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân, địa chỉ thường trú của cả vợ và chồng như quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này;”

    Như vậy, trường hợp của bạn do đã mua đất thổ và được cấp sổ hồng về quyền sử dụng đất,nhưng trên bìa chỉ có ghi họ tên 2 vợ chồng và năm sinh của bạn mà không có số CMND. Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi CMND của vợ chồng bạn là thiếu so với quy định ở trên thì  bạn làm đơn đề nghị đính chính gửi tới Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp quận, huyện, kèm theo đơn là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy tờ khác chứng minh thông tin còn thiếu (như trong trường hợp của bạn bị thiếu về thông tin CMND) để đề nghị giải quyết. 

    Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng  cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

  • Xem thêm     

    24/02/2017, 09:14:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 quy định Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ điều kiện sau: “ Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;”
    Cũng tại Khoản 1 Điều 17 Bộ luật dân sự 2015 quy định Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân gồm “Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản”.
    Như vậy, chủ thể ký kết(bên chủ nhà cho thuê) phải có năng lực pháp luật dân sự và Hợp đồng thê nhà có hiệu lực từ thời điểm hai bên ký kết. Bên cho thuê trong hợp đồng là tất cả những người có sở hữu và quyền sử dụng đất đó (người có năng lực pháp luật dân sự theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Câu hỏi của bạn không nêu rõ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất được cấp cho cá nhân người đó hay cấp cho hộ gia đình. Có hai trường hợp sau:
    1. Trường hợp thứ nhất: Quyền sở hữu nhà và sử dụng đất mà cá nhân chủ nhà cho thuê được Nhà nước cấp giấy chứng nhận mang tên cá nhân(vợ, chồng chủ nhà). Trường hợp này chỉ có chủ nhà là chủ sử dụng đối với thửa đất đó và có toàn quyền theo quy định của Luật Đất đai: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Khi làm thủ tục cho thuê thì chỉ cần có vợ chồng chủ nhà mà không cần phải có con ký vào hợp đồng.
    2. Trường hợp thứ hai: Quyền sử dụng đất được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận “Hộ …” (hộ gia đình của chủ nhà) hoặc được thừa kế
    Như vậy, quyền sở hữu nhà và sử dụng đất sẽ trở thành sở hữu chung của hộ gia đình chủ nhà (gồm tất cả những thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc những người thừa kế cùng huyết thống).
    Hiện nay khi làm thủ tục cho thuê tài sản chung của hộ gia đình hoặc những người được thừa kế thì cần có sự đồng ý của tất cả các thành viên. 
    Như vậy, trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cần căn cứ vào sổ hộ khẩu của chủ nhà tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định những thành viên có quyền định đoạt đối với quyền sở hữu nhà và sử dụng đất trên. Khi làm thủ tục cho thuê nhà thì các chủ thể phải ký vào hợp đồng đó. Nếu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có vợ chồng chủ nhà thì chỉ cần chủ nhà ký vào hợp đồng mà không cần người con ký vào.
    Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư  vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do người cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
     
  • Xem thêm     

    23/02/2017, 12:05:18 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Mẹ bạn có mua một căn hộ tập thể ở Cầu Giấy chỉ có chữ kí của chủ nhà, mẹ bạn và bác tổ trưởng tổ dân phố làm chứng. Việc mua bán này chưa phù hợp với quy định do không hoàn thiện hình thức của hợp đồng tại khoản 1 Điều 93 Luật nhà ở 2014 quy định: “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.”

    Như vậy, việc mua bán nhà chỉ có giấy viết tay là không hợp pháp, vô hiệu về mặt hình thức do không thực hiện đúng quy định trên và chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó, gia đình bạn và người bán cùng làm lại các thủ tục theo đúng quy định về hình thức của giao dịch chuyển nhượng nhà đất như đã nêu trên.

    Tuy nhiên, nếu có tranh chấp phát sinh hoặc trong trường hợp yêu cầu tòa án giải quyết thì tại Điều 129 Bộ luật dân sự 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức thì Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

    “1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

    2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”

    Như vậy, mặc dù năm 2000 việc mua bán đất thông qua hình thức viết tay nhưng gia đình nhà bạn đã giao tiền và nhận nhà đất để sử dụng tới nay thì có quyền làm đơn yêu cầu TAND quận/huyện công nhận hiệu lực của giao dịch này. Khi TAND ra quyết định công nhận giao dịch này thì gia đình bạn có thể căn cứ vào quyết định đó để làm thủ tục đăng kí sang tên.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    23/02/2017, 11:51:02 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Với vấn đề bạn đang thắc mắc, chúng tôi tư vấn như sau:

    Việc mua bán trên chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 về Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ điều kiện:

    “a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

    b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

    c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”

    Gia đình bạn mua một mảnh đất chỉ có giấy xác nhận giao và nhận tiền cho việc mua mảnh đất đó giữa hai bên và có xác nhận của địa phương, nhưng bên nhận tiền không phải là chính chủ của mảnh đất mà là Bố của chủ mảnh đất đó và nó không thỏa mãn với điều luật được trích dẫn ở trên vì chủ thể giao dịch là ông bố không phải chủ thể(chủ sử dụng đất) để ký kết nên có thể giao dịch đó vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 do Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này.

    Đối với trường hợp giao dịch mua bán đất ở trên tức là chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luật Đất đai năm 2013 quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 167 quy định: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”

    Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình bạn không được pháp luật thừa nhận do không đúng chủ thể ký kết và không tuân thủ về mặt hình thức (không được công chứng tại văn phòng công chứng hoặc chứng thực tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có bất động sản).

    Trong trường hợp của bạn nêu thì gia đình bạn và người bán cùng làm lại các thủ tục theo đúng quy định về hình thức của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu một trong hai bên cố tình không làm lại các thủ tục đó thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch này vô hiệu.

    Do đó, việc bạn muốn xây nhà trên mảnh đất đó khi xin xác nhận xây dựng tại địa phương thì không được vì bạn vẫn chưa phải là người chủ sử dụng đất do chưa đủ điều kiện chuyển nhượng nêu trên.

    Nếu việc sử dụng giấy ủy quyền sử dụng đất thì có thể được với điều kiện là phải được ủy quyền toàn bộ quyền định quyền sử dụng đất đoạt và quyền sở hữu tài sản bao gồm cả nội dung bạn nêu trên và Thời hạn của giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền đó do các bên thỏa thuận về thời hạn, nếu không thỏa thuận thời hạn thì chỉ có giá trị 01 năm kể từ ngày xác lập theo điều 563 Bộ luật dân sự 2015

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 04:46:08 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Nhà và đất mà bạn nêu là do ông bà để lại và được quyền đồng sỡ hữu của 5 người cháu, trên giấy tờ là người thứ 3 đứng tên nhưng việc sở hữu là đồng sở hữu cả 5 người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hiện nay.

    Việc xác định tài sản trên thuộc sở hữu chung hay riêng thì phải căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản, do chưa chứng kiến được Giấy chứng nhận nên chưa thể xác định một cách rõ ràng. Tuy nhiên, trường hợp nhiều người được thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất mà khi cấp Giấy chứng nhận chưa phân chia thừa kế cho từng người thì cấp một Giấy chứng nhận cho người đại diện đối với toàn bộ diện tích đất, tài sản gắn liền với đất để. Việc cử người đại diện ghi tên vào Giấy chứng nhận phải bằng văn bản thỏa thuận của những người được thừa kế đã xác định (có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật). Theo đó, chúng tôi sẽ giả dụ tài sản nhà và đất nêu trên thuộc sở hữu chung của 5 người đồng sở hữu và người thứ 3 được cử làm đại diện đứng tên trên Giấy CNQSD đất và sở hữu tài sản.

    Căn cứ vào Điều 207 Bộ luật dân sự 2015 quy định: 

    1. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.

    2. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.”.

    Trường hợp của bạn nêu thuộc trường hợp sở hữu chung theo phần, mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được tỷ lệ phần quyền của mình đối với khối tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau. Do đó, tại Điều 209 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”; và “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

    Trong trường hợp có 4 đồng sở hữu muốn bán tài sản mà một người không đồng ý thì tại Điều 216 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” . Cũng tại Khoản 1 Điều 218 Bộ luật dân sự quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình”. Như vậy, tài sản là nhà và đất mà bạn nêu ở trên nếu như được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản này phải được sự đồng ý của tất cả các đồng sở hữu đồng ý. Và tài chung của 5 đồng sở hữu được định đoạt (chuyển nhượng -  mua bán)  sẽ được pháp luật công nhận là hợp pháp khi việc này có sự đồng ý của tất cả các thành viên đồng sở hữu đó đồng ý.

    Việc chia tài sản thuộc sở hữu chung do các thành viên đồng sở hữu thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể nhờ tòa án giải quyết. Vì vậy nếu các thành viên trong hộ gia đình thỏa thuận được với nhau về vấn đề chia tài sản chung của nhau thì  có thể tới Phòng công chứng để lập Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung, nếu không thỏa thuận được thì khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung theo quy định của pháp luật.

    Trên đây là nội dung trả lời vắn tắt cho trường hợp của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 04:45:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 27 Luật cư trú 2006 quy định “người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có nhu cầu tách sổ hộ khẩu được tách khẩu”.Như vậy, trường hợp của bạn là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có nhu cầu tách sổ hộ khẩu, bạn có đủ điều kiện để được tách hộ khẩu; và khi viết phiếu báo thay đổi hộ khẩu thì những người đã tách khỏi hộ khẩu không cần phải viết tên những người đã tách khẩu trên sổ vì  họ đã tách và không liên quan đến việc mình đang thực hiện.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 10:42:46 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn hỏi thuộc trường hợp cấp đổi Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 76 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì việc cấp đổi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp được thực hiện trong các trường hợp sau:

    a) Người sử dụng đất có nhu cầu đổi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng hoặc các loại Giấy chứng nhận đã cấp trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 sang loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

    b) Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp bị ố, nhòe, rách, hư hỏng;

    c) Do thực hiện dồn điền, đổi thửa, đo đạc xác định lại diện tích, kích thước thửa đất;

    d) Trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc của chồng, nay có yêu cầu cấp đổi Giấy chứng nhận để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng.

    Như vậy, đất đã được chuyển nhượng  và hoàn thành các thủ tục sang tên chuyển nhượng và nếu có nhu cầu đổi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng hoặc các loại Giấy chứng nhận đã cấp trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 sang loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì được cấp đổi.

    Người sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận. Hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện hoặc cơ quan tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Thành phần hồ sơ gồm:

    1. Đơn đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận (theo Mẫu số 10/ĐK – Ban hành kèm theo Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.);

    2. Chứng minh nhân dân, hộ khẩu của chủ sử dụng đất (bản sao chứng thực); 
    3. Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp. 

    Về lệ phí, theo quy định tại mục b.3, điểm b, khoản 2, điều 3 Thông tư 02/2014/TT-BTC có quy định:

    Mức thu tối đa không quá 100.000 đồng/giấy đối với cấp mới; tối đa không quá 50.000 đồng/lần cấp đối với cấp lại (kể cả cấp lại giấy chứng nhận do hết chỗ xác nhận), cấp đổi, xác nhận bổ sung vào giấy chứng nhận.

    Trường hợp giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình, cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất (không có nhà và tài sản khác gắn liền với đất) thì áp dụng mức thu tối đa không quá 25.000 đồng/giấy cấp mới; tối đa không quá 20.000 đồng/lần cấp đối với cấp lại (kể cả cấp lại giấy chứng nhận do hết chỗ xác nhận), cấp đổi, xác nhận bổ sung vào giấy chứng nhận.

    * Chứng nhận đăng ký biến động về đất đai: Không quá 28.000 đồng/1 lần.

    * Trích lục bản đồ địa chính, văn bản, số liệu hồ sơ địa chính: Không quá 15.000 đồng/1 lần.

    + Mức thu áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân tại các khu vực khác: Tối đa không quá 50% mức thu áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân tại các quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; phường nội thành thuộc thành phố hoặc thị xã trực thuộc tỉnh.

    Trên đây là nội dung trả lời cho câu hỏi của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    11/02/2017, 11:17:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn nêu trên đối tượng Trần Văn G có bệnh tâm thần theo thông báo của gia đình cũng như của bệnh viện chuẩn đoán. Ngoài ra Cơ quan Điều tra cũng tiến hành trưng cầu giám định đến "Viện Pháp y Tâm thần Trung ương" và kết quả giám định như sau: “Trước, trong khi phạm tội và hiện tại (thời điểm giám định) bị can Trần Văn G có bệnh rối loạn loại phân liệt. Theo phân loại bệnh quốc tế lần 10 năm 1992 có mã bệnh F21. Tại thời điểm trên bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” Như vậy, Trần Văn G là người không có năng lực trách nhiệm do mắc bệnh như vậy được gọi là người trong tình trạng hạn chế năng lực hình sự.

    Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có sự phát triển bình thường về tâm - sinh lý sẽ có năng lựa năng lực trách nhiệm hình sự khi đã đạt độ tuổi nhất định - tuổi chịu năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị loại trừ do mắc các bệnh nhất định liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực trách nhiệm do mắc bệnh như vậy được gọi là người trong tình trạng không có năng lực năng lực trách nhiệm hình sự.

    Điều 13 bộ luật hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung  có quy định về tình trạng không có năng lực Trách nhiệm hình sự:

    "1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

    2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự".

    Từ các quy định trên, để xem xét về việc có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, phải căn cứ vào kết quả giám định, kết luận về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người đó.  

    Như vậy, người bị bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Bởi theo quy định thì người đó đang trong tình trạng không có năng lực năng lực trách nhiệm hình sự. Còn nếu trong trường hợp trước, trong, sau khi gây án và hiện tại, bị can (Trần Văn G) chỉ hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì vẫn phải chịu năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, việc hạn chế năng lực và điều khiển hành vi có thể được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt khi xét xử vụ án.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    10/02/2017, 12:43:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Bố mẹ bạn và người bán đã thực hiện giao dịch chuyển nhượng đất đai có làm hợp đồng chuyển nhượng chưa được công chứng hay chứng thực. Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử đụng đất thực hiện các quyền của mình phải lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực hợp đồng theo Điều 167:“ Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;”
    Do đó, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bố mẹ bạn và người chuyển nhượng là chưa đầy đủ theo đúng quy định ở trên. Tuy nhiên việc chuyển nhượng là đã phát sinh hiệu lực pháp luật.
    Khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thông thường các bên sẽ thực hiện đồng thời việc sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chủ sở hữu quyền mới. Trường hợp của bạn, Bố mẹ bạn chưa thực hiện các thủ tục như thực hiện hồng đồng chuyển nhượng công chứng hay chứng thực và không sang tên sổ đỏ và tiến hành đăng kí biến động nên về mặt giấy tờ vẫn mang tên người chủ cũ, nhưng trên thực tế về mặt pháp luật các bên đã kí Giấy mua bán nhà viết tay là một dạng hợp đồng chuyển nhượng nên mảnh đất đó thuộc quyền sử dụng của bố mẹ bạn. Nhưng điều đáng quan tâm ở đây là hiện nay bố mẹ bạn đã chết và việc sang tên vẫn chưa thực hiện theo đúng thủ tục theo quy định thì đương nhiên việc bố mẹ bạn chưa có GCNQSDĐ mang tên mình sẽ bất lợi trong một số trường hợp hoặc có thể gây khó khăn trong việc xác minh chính xác quyền sủ dụng và sở hữu tài sản đó.
    Vì vậy, nếu bạn muốn bán căn nhà đó thì hai bên sẽ phải cùng nhau thương lượng để bên chuyển nhượng đồng ý cùng hủy Giấy mua bán cũ và ký hợp đồng chuyển nhượng có công chứng, chứng thực và sang tên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho bạn và người thứ ba nếu bên chuyển nhượng (người chủ đất cũ) đồng ý.
    Nếu bạn có thắc mắc gì cần phải làm sáng tỏ thì bạn hãy liên lạc điện thoại để hiểu cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    08/02/2017, 04:28:06 CH | Trong chuyên mục Lao động

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn nêu ở trên thì cam kết này chưa có giá trị pháp lý để đòi bồi thường. Tuy nhiên, chỉ cần công ty đưa ra được cá giấy tờ, chứng từ hợp lệ về các chi phí đã bỏ ra để đào tạo bạn thì công ty có quyền yêu cầu bạn phải bồi hoàn lại chi phí này. Chi phí đào tạo tôi thấy thông tin bạn nêu chỉ có 25 ngày thì cũng không phải là một chi phí lớn nếu đào tạo cơ sở đào tạo trong nước nên bạn có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn cam kết.

    Nếu bạn có thắc mắc gì cần phải làm sáng tỏ thì bạn hãy liên lạc điện thoại để làm sáng tỏ hơn nhé.

  • Xem thêm     

    08/02/2017, 10:26:45 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn được căn cứ theo Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai như sau:

    Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

    a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.

    Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;

    b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này;

    c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này;

    d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.

    Ngoài ra theo quy định tại Khoản 1 Điều 6  Nghị định 47/2014/NĐ-CP  Về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở thì mức bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở như sau:

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc bồi thường về đất được thực hiện như sau:

    a) Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư;

    b) Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở.

    Do đó, căn cứ vào những dữ kiện bạn nêu, có thể xác định bạn có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định trên: Đất sử dụng ổn định trước năm 1993, không có giấy tờ về đất, được xác nhận là đất không có tranh chấp và được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, Nếu Nhà nước thu hồi đất vì vi phạm về đất đai thì gia đình không được bồi thường về đất.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    07/02/2017, 02:43:30 CH | Trong chuyên mục Lao động

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Nếu bạn chứng minh được việc là mang máy vào kho rồi thì có được như là đã giao tài sản khi có người nhìn thấy và chứng kiến thì coi như bạn không có lỗi và không phải bồi thường. Còn nếu bạn không chứng minh minh được việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý và bên Công ty chứng minh được lỗi của bạn thì phải bồi thường.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    05/02/2017, 11:13:27 CH | Trong chuyên mục Lao động

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trong trường hợp của bạn nếu như bây giờ bạn chấm dứt hợp đồng lao động thì đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.( Theo Điều 41  Bộ luật lao động 2012).

    Vì vậy, bạn phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này( theo quy định tại khoản 3, Điều 43, Luật này).  Và như  hợp đồng thì bạn phải bồi thường một phần chi phí đào tạo cho công ty, với  thời gian đào tạo là “ Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài.” ( khoản 3, Điều 62, Luật này).

    Trong trường hợp của bạn, bạn có thể đưa vấn đề này ra  đàm phán với ban giám đốc công ty đàm phán  để đòi hỏi thêm về quyền lợi của bạn như: tăng lương, các chế độ đãi ngộ khác.... Và nếu như sau khi đàm phán mà bạn thấy vẫn chưa thỏa đáng với sức lao động của bạn và bạn muốn chấm dứt hợp  đồng thì bắt buộc bạn phải hoàn trả công ty số tiền chi phí đào tạo.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 05:15:15 CH | Trong chuyên mục Lao động

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động quy định tại Điều 46 Luật lao động 2012 như sau:
    + Danh sách và số lượng người lao động tiếp tục được sử dụng, người lao động đưa đi đào tạo lại để tiếp tục sử dụng;
    + Danh sách và số lượng người lao động nghỉ hưu;
    + Danh sách và số lượng người lao động được chuyển sang làm việc không trọn thời gian; người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động;
    + Biện pháp và nguồn tài chính bảo đảm thực hiện phương án.
    Trường hợp có chỗ làm việc mới thì ưu tiên đào tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng. Như vậy, việc công ty phải thanh lý Hợp đồng lao động cũ và giải quyết các chế độ trợ cấp cho người lao động, sau đó Công ty mới ký Hợp đồng lao động với người lao động tiếp tục làm việc là không bắt buộc theo như quy định của pháp luật: các chỉ kí kết Hợp đồng lao động mới khi 2 bên thỏa thuận với nhau.
    Việc cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại Điều này chỉ được tiến hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
    Công ty được cho 01 số người lao động nghỉ việc chỉ được áp dụng trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mới mà phải cho người lao động thôi việc .
    Người lao động được hưởng chế độ trợ cấp mất việc làm theo quy định Điều 49 Luật lao động.
    - Điều kiện được hưởng: đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm .
    - Mức hưởng trợ cấp: mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương.
    - Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động mất việc làm.
    2. Căn cứ Điều 31 Bộ luật lao động 2012 quy định Chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động như sau:
    “1. Khi gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, áp dụng biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động, nhưng không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong một năm, trừ trường hợp được sự đồng ý của người lao động.
    2. Khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 03 ngày làm việc, thông báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ, giới tính của người lao động.
    3. Người lao động làm công việc theo quy định tại khoản 1 Điều này được trả lương theo công việc mới; nếu tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương công việc cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% mức tiền lương công việc cũ nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.”
    Như vậy, việc công ty thay đổi cơ cấu, công nghệ theo quy định thì người lao động sẽ được trả mức lương tương ứng với vị trí công việc mới, trường hợp tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương công việc cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% mức tiền lương công việc cũ nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
    Ls. Vũ Văn Toàn
    Mobile: 0978 994 377
     
  • Xem thêm     

    03/02/2017, 11:51:26 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo thông tin ở trên, chồng bạn chết không để lại di chúc nên di sản là quyền sử dụng 250m2 đất được chia theo pháp luật, những người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Khoản 1 Điều 649 Bộ luật Dân sự năm 2015 bao gồm:

    “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

    Theo quy định trên, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ và các con của người chết. Do đó, trong trường hợp này, bạn là vợ của người đã chết nhưng không có giấy đăng ký kết hôn hợp pháp theo luật hôn nhân và gia đình nên về phương diện pháp luật, bạn không phải là vợ hợp pháp của chết nên sẽ không được hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, Quyền sử dụng đât đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất 250m2 đứng tên vợ chồng bạn.

    Như vậy, Quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng bạn sẽ được chia đôi mỗi bên một nửa, phần di sản thừa kế của chồng bạn là một nửa quyền sử dụng 250m2 đất nêu trên là di sản thừa kế được chia cho những người con, còn một nửa quyền sử dụng 250m2 đất vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bạn.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

    Ls. Vũ Văn Toàn

    Mobile: 0978 994 377

109 Trang «<90919293949596>»