Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

15 Trang 12345>»
  • Xem thêm     

    23/02/2024, 09:15:48 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Đối với trường hợp của bạn bị lừa đảo qua mạng sẽ rất khó để xác định được thông tin chính xác của kẻ lừa đảo vì chúng sẽ sử dụng các thông tin giả mạo hoặc ẩn danh. Do đó, việc tự mình lấy lại số tiền lừa đảo sẽ rất khó.

    Thay vào đó, bạn hay các nạn nhân của các vụ lừa đảo qua mạng có thể nhờ tới cơ quan có thẩm quyền để được hỗ trợ, giải quyết.

    Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm gồm:

    - Cơ quan điều tra;

    - Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

    - Viện kiểm sát các cấp;

    - Các cơ quan, tổ chức khác: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

    Như vậy, bạn hoặc những người bị hại trong các vụ lừa đảo qua mạng có thể tố cáo hành vi phạm tội tới các cơ quan nêu trên để được giải quyết kịp thời.

    Khi tố cáo lừa đảo qua mạng tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết, cần chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau:

    - Đơn trình báo công an;

    - Chứng minh thư nhân dân/Căn cước công dân của bị hại (bản sao công chứng);

    - Chứng cứ kèm theo để chứng minh.

    Chứng cứ để chứng minh hành vi lừa đảo cần phải thu thập các bằng chứng rõ ràng, cụ thể nhất thể hiện được hành vi đó là hành vi lừa đảo như: tin nhắn, số điện thoại, tài khoản ngân hàng lừa đảo, lịch sử giao dịch, hoặc biên lai, hóa đơn giao dịch,... qua các hình thức khác. Ngoài ra có thể kèm theo video, hình ảnh chứng minh, ghi âm hội thoại ... để nộp cho cơ quan Công an.

  • Xem thêm     

    01/02/2024, 09:19:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt;

    Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.

    Trường hợp bạn hỏi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND huyện.

  • Xem thêm     

    28/01/2024, 09:11:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Khi bị công an triệu tập vì một vụ án hình sự thì người dân bắt buộc phải đến nếu không có thể bị áp giải, dẫn giải theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể:

    “1. Áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội.

    2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với:

    a) Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;

    b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;

    c) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.”

    Ngoài ra, khoản 3 Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng quy định cụ thể như sau: “Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc có biểu hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết định áp giải.”

    Tuy nhiên, nếu người được triệu tập hoặc được mời ở quá xa trụ sở của Cơ quan điều tra thì có thể triệu tập hoặc mời họ đến trụ sở công an nơi ở hoặc nơi làm việc của họ để lấy lời khai hoặc báo cáo đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án thực hiện việc ủy thác điều tra.

    Để đảm bảo các rủi ro có thể xảy ra thì điều tốt nhất khi nhận được giấy triệu tập thì bạn nên chấp hành theo lệnh trong giấy triệu tập

  • Xem thêm     

    28/01/2024, 09:08:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Hoạt động trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự là hai loại hoạt động nghiệp vụ quan trọng của lực lượng Công an …, có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ trợ lẫn nhau trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.

    Hoạt động điều tra được thực hiện nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan của tội phạm, có hay không có hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm. Các đơn vị điều tra được thành lập trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hoạt động điều tra hình sự là một hoạt động trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 .

    Hoạt động trinh sát là một hoạt động nghiệp vụ đặc thù chuyên biệt và có yêu cầu bí mật cao liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm. Các đơn vị trinh sát được thành lập trong Công an nhân dân thực hiện đấu tranh có hiệu quả với các loại hành vi phạm tội, nhất là đối với các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm ma túy,... Hoạt động trinh sát chưa được ghi nhận trong Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015, do đó, hoạt động trinh sát không phải là một hoạt động trong tố tụng hình sự.

    Tuy nhiên, Quan hệ giữa đơn vị điều tra và đơn vị trinh sát trong hoạt động điều tra hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Theo đó, Quan hệ phối hợp giữa hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra tố tụng trong điều tra vụ án hình sự nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, góp phần xử lý các hành vi phạm tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không để oan sai, lọt tội phạm.

    Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, chứng cứ đã thu thập được trong vụ án thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì những chứng cứ thu thập trước đó được sử dụng để phát hiện, thu thập chứng cứ mới. Bởi lẽ, trong các giai đoạn tố tụng không phải tất cả các vụ án đều đã có đầy đủ các chứng cứ, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án. Vì vậy, việc phát hiện và thu thập thêm chứng cứ mới là hoạt động được tiến hành liên tục cho đến khi các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ chứng cứ chứng minh sự thật vụ án. Một trong những cách thức được sử dụng để thu thập thêm những chứng cứ mới là sử dụng chứng cứ đã có, đã thu thập được từ trước. Do đó, các thông tin thu thập được từ các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng trinh sát 

  • Xem thêm     

    27/11/2023, 09:19:07 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án cụ thể như sau:

    Thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án:

    1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.

    2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

    Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án.

    3. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để thi hành án.

    Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.

    Theo đó, hiện nay thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

    Tuy nhiên, trường hợp như bạn nêu có thể thuộc trường hợp được hoãn chấp hành hình phạt. Căn cứ Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định về người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

    - Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

    - Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

    - Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    - Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

    Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật Lao động 2019 như sau:

    Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động

    1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 177 của Bộ luật này.

    2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.

    3. Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

    4. Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

    5. Người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    6. Người lao động chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.

    7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

    8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải.

    9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.

    10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật này.

    ...

    Như vậy, nếu người lao động bị kết án nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do (căn cứ vào bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án) thì công ty có quyển chấm dứt hợp dồng lao động.

  • Xem thêm     

    27/11/2023, 08:46:03 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Luật căn cước công dân năm 2014, trong đó nêu rõ: Thẻ CCCD là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về CCCD của người được cấp thẻ để thực hiện các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được yêu cầu công dân xuất trình thẻ CCCD để kiểm tra về các thông tin của công dân.

    Ngoài ra, căn cứ tại Điều 7 Luật Căn cước công dân 2014 quy định hành vi Thu hồi, tạm giữ thẻ căn cước công dân trái quy định của pháp luật là hành vi bị cấm. Theo đó, việc cơ sở lưu trú giữ căn cước công dân của khách là hành vi vi phạm pháp luật.

    Theo quy định tại Khoản 4 Điều 28 Luật căn cước công dân năm 2014 chỉ những cơ quan thi hành lệnh tạm giữ, tạm giam; cơ quan thi hành án phạt tù, thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mới có thẩm quyền tạm giữ thẻ CCCD.

    Khi đến liên hệ công tác, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh... tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, nơi tiếp công dân thì công dân cần cung cấp họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có), nghiêm chỉnh chấp hành nội quy tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân.

    Chính vì vậy, trong các giao dịch dân sự như xin việc làm, thuê phòng trọ, khách sạn lưu trú qua đêm thì chủ cơ sở không có quyền giữ CCCD mà chỉ được phép yêu cầu công dân xuất trình thẻ CCCD để kiểm tra thông tin của công dân. Quy định của pháp luật về giữ chứng minh nhân dân trước đây cũng như vậy, chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới được phép giữ thẻ CCCD hay chứng minh nhân dân của công dân.

  • Xem thêm     

    10/10/2023, 08:49:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Hoạt động trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự là hai loại hoạt động nghiệp vụ quan trọng của lực lượng Công an …, có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ trợ lẫn nhau trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.

    Hoạt động điều tra được thực hiện nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan của tội phạm, có hay không có hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm. Các đơn vị điều tra được thành lập trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hoạt động điều tra hình sự là một hoạt động trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 .

    Hoạt động trinh sát là một hoạt động nghiệp vụ đặc thù chuyên biệt và có yêu cầu bí mật cao liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm. Các đơn vị trinh sát được thành lập trong Công an nhân dân thực hiện đấu tranh có hiệu quả với các loại hành vi phạm tội, nhất là đối với các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm ma túy,... Hoạt động trinh sát chưa được ghi nhận trong Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015, do đó, hoạt động trinh sát không phải là một hoạt động trong tố tụng hình sự.

    Tuy nhiên, Quan hệ giữa đơn vị điều tra và đơn vị trinh sát trong hoạt động điều tra hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Theo đó, Quan hệ phối hợp giữa hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra tố tụng trong điều tra vụ án hình sự nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, góp phần xử lý các hành vi phạm tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không để oan sai, lọt tội phạm.

    Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, chứng cứ đã thu thập được trong vụ án thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì những chứng cứ thu thập trước đó được sử dụng để phát hiện, thu thập chứng cứ mới. Bởi lẽ, trong các giai đoạn tố tụng không phải tất cả các vụ án đều đã có đầy đủ các chứng cứ, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án. Vì vậy, việc phát hiện và thu thập thêm chứng cứ mới là hoạt động được tiến hành liên tục cho đến khi các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ chứng cứ chứng minh sự thật vụ án. Một trong những cách thức được sử dụng để thu thập thêm những chứng cứ mới là sử dụng chứng cứ đã có, đã thu thập được từ trước. Do đó, các thông tin thu thập được từ các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng trinh sát thuộc lực lượng vũ trang vẫn được coi là chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.

  • Xem thêm     

    15/08/2023, 11:29:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn và ông A thành lập công ty TNHH hai thành viên bạn là Chủ tịch HĐTV còn người kia là giám đốc. Khi thành lập mỗi người góp vào 300 triệu để mua máy móc thiết bị.

    Ông A không thông qua HĐTV tự ý làm hồ sơ vay tiền mặt với số tiền là 930 triệu đồng về nộp vào công ty 200 triệu còn lại 730 triệu chiếm dụng để sử dụng cá nhân.

    Sau đó ông A có báo với HĐTV là có công việc (làm giám đốc ngân hàng) nên giới thiệu bà vợ ông A là bà B làm giám đốc công ty (bà B là hợp đồng làm việc không phải là người góp vốn).

    Vì đã có hành vi gian lận để chiếm đoạt tài sản của công ty, nhưng bạn còn có nhiều tình tiết cũng như việc bằng cách nào ông A có thể có số tiền đó. Nên chúng tôi tạm chia hành vi của A và vợ có thể có thể cấu thành tội Tội lừa đảo chiểm đoạt tài sản theo theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015:

    Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

    c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

    Còn tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bởi Bộ luật hình sự 2017 là hành vi được thực hiện bởi những người có chức vụ, quyền hạn. Người này đã thực hiện các hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình, sử dụng quyền hạn như một phương tiện để thực hiện tội phạm.

    Căn cứ vào các dấu hiệu phạm tội cụ thể và đối chiếu với các quy định nêu trên thì ông A và bà B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một trong hai tội trên. Cơ quan điều tra sẽ dựa trên các tình tiết cụ thể trong vụ án để xác định tội danh phù hợp.

  • Xem thêm     

    09/08/2023, 10:35:58 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tại Khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

    “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.”

    Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp này được thực hiện khi Tòa án xét xử tội phạm mới. Theo đó, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định giống như trường hợp bạn đã nêu. Việc tổng hợp các hình phạt trong trường hợp này là chỉ tổng hợp hình phạt mới với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án mà người phạm tội đang phải chấp hành.

     

  • Xem thêm     

    26/07/2023, 10:55:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004 quy định việc thuê phương tiện được thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản giữa chủ phương tiện và người thuê phương tiện.

    Các hình thức thuê phương tiện gồm:

    - Thuê phương tiện không bao gồm thuyền viên làm việc trên phương tiện;

    - Thuê phương tiện và thuyền viên làm việc trên phương tiện.

    Theo đó, chủ phương tiện cho thuê phương tiện có trách nhiệm sau:

    - Bảo đảm phương tiện đang trong trạng thái an toàn, bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật khi giao phương tiện cho người thuê phương tiện;

    - Trong trường hợp cho thuê phương tiện và thuyền viên trên phương tiện phải bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn làm việc của thuyền viên trên phương tiện; trả tiền lương, tiền công cho thuyền viên và chế độ khác theo quy định của pháp luật.

    Người thuê phương tiện có trách nhiệm sau:

    - Sử dụng phương tiện, thuyền viên theo điều khoản trong hợp đồng và quy định của pháp luật;

    - Bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn làm việc của thuyền viên trên phương tiện; trả tiền lương, tiền công cho thuyền viên và chế độ khác theo quy định của pháp luật trong trường hợp quy định;

    - Không cho người khác thuê lại phương tiện, thuyền viên trên phương tiện thuê, trừ trường hợp được chủ phương tiện đồng ý bằng văn bản; không được sử dụng phương tiện thuê làm tài sản thế chấp;

    - Chịu trách nhiệm về bảo đảm an toàn và bảo vệ môi trường trong quá trình sử dụng phương tiện; trường hợp phát hiện tình trạng mất an toàn và gây ô nhiễm môi trường của phương tiện thì phải tạm dừng khai thác và thông báo ngay cho chủ phương tiện biết để có biện pháp khắc phục.

    Vậy trường hợp của bạn thì phải xử phạt :

    1. Bên cho thuê bị xử phạt về hành vi: cho thuê phương tiện không đủ điều kiện hoạt động theo quy định (điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định 139/2021/NĐ-CP).

    2. Bên thuê bị xử phạt về hành vi: Nhận, sử dụng phương tiện không đảm bảo điều kiện hoạt động (điểm đ khoản 1 Điều 20 Nghị định 139/2021/NĐ-CP).

  • Xem thêm     

    26/07/2023, 10:16:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Dưới góc độ khoa học luật hình sự, rửa tiền là một tội phạm tương đối đặc biệt. Với tư cách là một tội phạm phái sinh, rửa tiền có thuộc tính phụ thuộc tự nhiên vào tội phạm nguồn. Có thể nói không có tội phạm nguồn thì không có tội phạm rửa tiền. Theo Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự 2015 về tội rửa tiền vừa được HĐTP TANDTC ban hành mới đây, có hiệu lực từ ngày 07/7/2019, thì tội phạm nguồn là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự và tài sản có được từ tội phạm đó trở thành đối tượng của tội rửa tiền.

    Căn cứ quy định tại Luật Phòng chống rửa tiền 2022 và tại điều 324 Bộ luật Hình sự 2015, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về “Tội rửa tiền” như sau:

    – Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có;

    – Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;

    – Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;

    – Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có.

    – Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;

    – Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.

    Việc che giấu nguồn gốc phạm tội và đưa số tiền, tài sản do mình phạm tội mà có vào trong hệ thống tài chính, đầu tư kinh doanh hay tiếp tục được sử dụng để hỗ trợ hành vi phạm tội mới rõ ràng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tách biệt và độc lập so với hành vi phạm tội nguồn, xâm hại đến khách thể riêng biệt là sự ổn định của hệ thống tài chính. Trong trường hợp này, cả hành vi phạm tội nguồn và hành vi rửa tiền đều phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập như những tội danh riêng biệt.

    Như vậy, tội phạm nguồn của tội rửa tiền như Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là tội phạm chính tạo ra thu nhập mà khi được rửa sẽ dẫn đến tội rửa tiền.

  • Xem thêm     

    26/07/2023, 09:26:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lột tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa trên cơ sở và phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự.

    Thi hành án hình sự là một hoạt động Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm thực thi các bản án, quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật; việc thi hành đuợc bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ; tất cả các cơ quan, tổ chức và công dân đều phải tôn trọng; tổ chức và cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành.

    Trước đây có quan điểm cho rằng, thi hành án hình sự, cùng với điều tra, truy tố và xét xử đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự. Có quan điểm lại cho rằng, thi hành án hình sự là một hoạt động bổ trợ tư pháp, cũng có quan điểm lại cho rằng thi hành án hình sự thuần túy chỉ là một hoạt động mang tính hành chính tư pháp.

    Nếu như trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thi hành án hình sự được coi là một giai đoạn của tố tụng, và được ghi nhận tại Phần thứ năm: Thi hành bản án và quyết định của Tòa án (chương XXV đến chương XXIX), thì sang đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, phần thi hành án hình sự đã được cắt bỏ hoàn toàn, chỉ còn một số nội dung về thi hành án tử hình, tha tù trước thời hạn có điều kiện và xoá án tích được ghi nhận tại Chương XXIV. Mọi vấn đề liên quan đến thi hành án hình sự đều được ghi nhận tại Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cùng những văn bản hướng dẫn.

    Như vậy, tố tụng hình sự đã kết thúc khi bản án do Tòa án đưa ra có hiệu lực pháp luật. Quá trình thi hành bản án đó chỉ là một hoạt động hành chính – tư pháp bình thường (hoạt động quản lí Nhà nước mang tính chất chấp hành, điều hành đối với lĩnh vực tư pháp). Vì vậy, quan điểm truyền thống cho rằng thi hành án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự là không hợp lý, cần phải được loại bỏ. Vấn đề này đã được nhận thức đúng đắn và được nội luật hoá một cách cụ thể

  • Xem thêm     

    13/02/2023, 03:30:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo quy định tại điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những nguồn thông tin sau đây làm căn cứ cho khởi tố vụ án, phục vụ quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có tội:

    “1. Tố giác của công dân;

    2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;

    3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;

    4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;

    5. Người phạm tội tự thú.”

    Khi lấy lời khai của những người có hành vi đánh bạc đã bị bắt mà cơ quan điều tra phát hiện ra hành vi phạm tội của bạn thì bạn cũng sẽ bị áp dụng các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật như triệu tập để xử lý theo quy định của pháp luật. Do đó, dù bạn không bị bắt quả tang nhưng qua lời khai của các đối tượng khác, qua hoạt động điều tra, nếu có đủ các căn cứ xác định hành vi đánh bạc trái phép của nhóm này (có bạn) đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc trái phép căn cứ theo điều 321 Bộ luật hình sự 2015 thì hành vi đánh bạc đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình phạt về tội phạm nói trên.

    Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 nêu rõ, người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5-dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20-100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng-3 năm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tính chất chuyên nghiệp; Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên; Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội hoặc tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 3-7 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10-50 triệu đồng.

    Trường hợp hành vi đánh bạc của đối tượng không đủ yếu tố cấu thành tội phạm mà chỉ là hành vi vi phạm hành chính thì sẽ bị xử phạt theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội.

  • Xem thêm     

    13/01/2023, 08:58:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ Luật giao dịch điện tử 2005, Hợp đồng điện tử có thể hiểu: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu.” Bản chất của các hợp đồng cung cấp dịch vụ là thông điệp dữ liệu. Thông điệp dữ liệu được hiểu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử (Khoản 12 Điều 4).

    Căn cứ theo khoản 1 Điều 23 Luật giao dịch điện tử 2005:

    “1. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, các bên tham gia giao dịch điện tử có quyền thỏa thuận:

    a) Sử dụng hoặc không sử dụng chữ ký điện tử để ký thông điệp dữ liệu trong quá trình giao dịch;

    b) Sử dụng hoặc không sử dụng chữ ký điện tử có chứng thực;

    c) Lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử trong trường hợp thỏa thuận sử dụng chữ ký điện tử có chứng thực.”

    Dựa trên điểm a ở trên, 2 bên tham gia giao kết hợp đồng được tự do thỏa thuận dùng chữ ký điện tử. Trong trường hợp mọt bên không sử dụng chữ ký điện tử mà vẫn muốn giao kết hợp đồng điện tử thì vẫn có hiệu lực.

    Tùy theo thỏa thuận giao kết của các bên mà hợp đồng điện tử có hoặc không cần có chữ ký điện tử của người mua mà hợp đồng điện tử vẫn đảm bảo đầy đủ tính pháp lý.

    Hơn nữa theo khoản 2 Điều 36 có nêu rõ: “Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.” Nếu một bên điền vào mục chấp nhận trên điều khoản mà của một bên đề cập chính là thông qua thông điệp dữ liệu. Trong trường hợp này, hợp đồng không có chữ ký điện tử vẫn có hiệu lực.

  • Xem thêm     

    15/12/2022, 06:29:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, gia đình bạn bị nhà kế bên bắt nạt. Nhiều lần họ qua kiếm chuyện, bạn có báo công an phường nhưng hầu như công an không giải quyết gì. Nên càng ngày họ càng lộng hành.

    Chồng bạn ở nhà một mình thì hàng xóm cho người mang dao qua kéo chồng bạn ra ngoài chém và hăm dọa sẽ giết cả nhà. Chồng bạn bị vết chém vào tay đến giờ vẫn còn sẹo. Camera an ninh có ghi lại toàn bộ sự việc diễn ra. Và suốt 1 năm qua vợ chồng bạn đã nhịn nhưng càng ngày họ càng quá đáng như thể không ai làm gì được họ.

    Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành điều tra, xác minh vụ việc khi có đơn tố giác trong thời gian 20 ngày kể từ ngày nhận được tố  giác và ra một trong các quyết định  như sau:

    “Điều 147. Thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

    1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

    a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

    b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

    c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố...”

    Nếu như qua việc xác minh phát hiện người hàng xóm có đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc các tội có hành vi tương ứng thì cơ quan điều tra sẽ ra Quyết định khởi tố vụ án.

    Thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định, cụ thể như sau:

    - 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm).

    - 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù)…….

    Như vậy, thời hạn mà bạn nêu trên thì vụ việc vẫn còn thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà người thực hiện hành vi đánh chồng bạn có thể bị xử lý vi phạm hành chính. Theo Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi đánh nhau, lôi kéo đánh nhau gây rối trật tự công cộng, tùy tình tiết vụ việc sẽ áp dụng các mức phạt như sau:

    – Phạt từ 1 triệu – 2 triệu đồng đối với hành vi tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng (điểm b khoản 2 Điều 7);

    – Phạt từ 2 triệu – 3 triệu đồng đối với hành vi tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (điểm b khoản 3 Điều 7);

    Nếu không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người hành hung chồng bạn sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    01/12/2022, 04:44:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Đầu tiên cần phân biệt tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”.

    - Điểm giống nhau giữa cả hai tội này đều có những điểm giống nhau là xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác.

    - Điểm khác nhau cơ bản và quan trọng nhất để phân biệt tội "Giết người" và "Cố ý gây thương tích" ở mục đích phạm tội và lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội, ngoài ra còn một số yếu tố khác:

    - Mục đích của hành vi phạm tội:

    Tội "Giết người": Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.

    Tội "Cố ý gây thương tích" hoặc "Cố ý gây thương dẫn đến chết người": Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

    - Xác định mức độ, cường độ tấn công

    Tội "Giết người": Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây chết người.

    Tội "Cố ý gây thương tích": Mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập với cường độ tấn công nhẹ hơn.

    - Vị trí tác động trên cơ thể:

    Tội "Giết người": Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng,…

    Tội "Cố ý gây thương tích": Thường là những vị trí không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân,...

    - Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác:

    Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy… cũng là yếu tố quan trọng nhằm phân biệt hai tội này.

    -  Yếu tố lỗi:

    Tội "Giết người": Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Trong trường hợp một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý gián tiếp.

    Tội "Cố ý gây thương tích": Người thực hiện hành vi thấy trước hành vi của mình có thể gây thương tích cho người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

    Nếu "Cố ý gây thương tích" dẫn đến chết người thì người thực hiện hành vi thấy trước hành vi của mình có thể có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Ở đây người phạm tội chỉ có ý thức và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả thương tích chứ không phải hậu quả chết người. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    Như vậy, trong trường hợp phạm tội "Cố ý gây thương tích", người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Còn trường hợp phạm tội "Giết người" là người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của họ (giết người chưa đạt).

    Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội "Cố ý gây thương tích", nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội "Giết người".

    Để có cái nhìn rõ hơn về sự khác nhau giữa hai tội danh này, bạn đưa ra tình huống pháp lý mà trên thực tiễn còn nhiều quan điểm khác nhau khi xác định tội danh: 1 người giết chết 1 người và làm người khác bị thương tích 45% trong cùng 1 vụ án thì phải chịu hai tội danh là Giết người và Cố ý gây thương tích.

  • Xem thêm     

    17/10/2022, 09:20:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 51 là dấu hiệu định tội hoặc định khung trong đó có trường hợp "Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Có thể hiểu một cách nôm na vắn tắt, tình tiết định tội là tình tiết mà trong cấu thành tội phạm đó bắt buộc phải có, nếu không có tình tiết đó thì sẽ không phạm tội đó. Ví dụ: Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 51 c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Đây chính là tình tiết định tội của tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 126 Bộ Luật này. Nếu không có tình tiết vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ không phạm tội này mà là phạm vào một tội khác (như Tội giết người chẳng hạn).

    Khi đã thỏa mãn dấu hiệu cấu thành một tội phạm (phạm tội gì) thì việc tiếp theo là xác định mức phạt cụ thể đối với tội đó là bao nhiêu, khi này khái niệm khung hình phạt bắt đầu được xem xét đến. Thông thường một Điều luật sẽ có 1 hoặc nhiều khung hình phạt và sắp xếp theo hướng khung hình phạt sau cao hơn khung hình phạt trước (thường Khoản 2, 3, 4…trở đi mức phạt sẽ cao hơn Khoản 1) cá biệt có một số Điều luật được thiết kế theo hướng ngược lại (ví dụ như Điều 123 Tội giết người Khoản 1 khung hình phạt là cao nhất – tử hình, nhưng Khoản 2 mức tối đa chỉ 15 năm).

    Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sẽ thuộc vào một khung nhất định. Khi đã thuộc vào một khung nào đó thì sẽ xem xét đến ý nghĩa của những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Nếu một tội phạm được thực hiện mà không có bất kỳ tình tiết tăng nặng hay giảm nhe nào thì mức án được tuyên sẽ là khoảng giữa của khung. Ví dụ: Khung hình phạt áp dụng là từ 03 năm đến 07 năm tù giam thì mức án sẽ là 05 năm tù giam ((03 + 07)/2 = 05). Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể xuống dưới mức 05 năm nhưng không được thấp hơn 03 năm. Trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng thì mức phạt được tuyên có thể nhiều hơn 05 năm nhưng tối đa không quá 07 năm.

    Như vậy có thể thấy tình tiết giảm nhẹ chỉ có giá trị sau khi đã xác định người phạm tội phạm tội nào và khung hình phạt là bao nhiêu để tuyên mức phạt dưới mức trung bình của khung. Do đó khi tình tiết giảm nhẹ nào đó đã được dùng để định tội (khá phổ biến) và dùng để định khung (rất hiếm gặp – nhưng nhà làm luật vẫn quy định phòng hờ) thì sẽ không áp dụng để xem xét định lượng hình phạt nữa vì như vậy 1 tình tiết giảm nhẹ lại áp dụng đến 02 lần. Trở lại với ví dụ phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì đó đã là tình tiết định tội tại Điều 126 rồi, không thể khi quyết định hình phạt lại nêu thêm 1 tình tiết giảm nhẹ là do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 1 lần nữa.

  • Xem thêm     

    28/09/2022, 09:03:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp thì em có xô xát đánh nhau với ông hàng xóm nhưng ông hàng xóm lại bị tỉ lệ thương tích với 21%. Theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

     “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

     a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    ……….”

    Nếu người hàng xóm bị tỷ lệ thương tật 21% thì hành vi đánh người của em bạn đã đủ căn cứ cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định trên. Do đó, tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm do hành vi cố ý gây thương tích của em bạn với người hàng xóm kia và tỷ lệ thương tật của người đó thì em bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tương đương. Đồng thời theo Điều 32 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính theo quy định tại Điều 134 nêu trên, em bạn có thể phải chịu hình phạt bổ sung như phạt tiền, quản chế,…

    Tuy nhiên, nếu tỷ lệ thương tật của nạn nhân chỉ dừng lại ở khoản 1 điều này ( từ 11% đến 30%) thì hành vi của em bạn chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vì vậy, trong trường hợp này các bạn nên đến thỏa thuận, thương lượng với người bị hại, nếu như bên bị hại không yêu cầu khởi tố thì ba bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    04/09/2021, 10:54:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”.

    Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” là dấu hiệu cụ thể hóa hành vi khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em, đồng thời phân biệt hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đối với các hành vi khách quan của các tội phạm về tình dục khác được quy định. Về bản chất thì dấu hiệu này không phải là dấu hiệu mô tả hành vi khách quan của tội phạm mà đây là dấu hiệu để nhà làm luật phân biệt hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và với một số hành vi liền trước hành vi “giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác” ở trong tội phạm khác. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi như sau:

    Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục.

    Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội dâm ô người dưới 16 tuổi khi thực hiện một trong các hành vi dâm ô trẻ em như trên có thể bị phạt tù đến 12 năm. Tuy nhiên, chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt. Theo đó bạn là người dưới 18 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm về hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổitheo điều luật đã được viện dẫn ở trên.

  • Xem thêm     

    15/08/2021, 09:23:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tùy tính chất, mức độ, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    Truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Luật hình sự 2015 quy định, Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại....

    Về xử phạt hành chính, Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1-2 triệu đồng.

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Khi bạn phát hiện níck facebook bị hách và có dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó và không biết người đó là ai, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở nội dung tin nhắn qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook.

15 Trang 12345>»