Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

109 Trang «<88899091929394>»
  • Xem thêm     

    27/03/2017, 09:52:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Người thi hành công vụ là cán bộ, công chức, nhân viên của các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức đang thi hành nhiệm vụ được cơ quan, tổ chức đó giao cho hoặc theo quy định của pháp luật vì lợi ích chung. Hành vi chống lại người thi hành công vụ trực tiếp xâm hại đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính những người thi hành công vụ.

    Như vậy, người cán bộ, công chức đang làm nhiệm vụ trong phòng làm việc tại trụ sở UBND cấp xã là người thi hành công vụ như đã nêu trên. Hành vi mà công dân cố ý đánh người cán bộ, công chức đó trong phòng làm việc thì có thể đã cấu thành Tội chống người thi hành công vụ được quy định Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999.

  • Xem thêm     

    24/03/2017, 11:21:26 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Nếu hành vi gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác chỉ dừng ở mức độ xử lý hành chính, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì theo Điểm e Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì người "Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác" có thể bị phạt từ  2.000.000 đến 3.000.000 đồng
    Nếu tính chất hành vi và mức độ thiệt hại đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì hành vi cố ý gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích tại Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 
    Để xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý của người gây thương tích, anh bạn cần trình báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan điều tra công an cấp xã để giải quyết nhưng cơ quan công an xã không giải quyết thì bạn có thể khiếu nại lên cơ quan cấp trên hoặc làm đơn tố giác tội phạm lên Cơ quan điều tra cấp huyện. Nội dung của đơn trình báo, tố giác bao gồm các nội dung cơ bản như: Họ và tên người trình báo, ngày tháng năm sinh, số Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu thường trú, nội dung chi tiết vụ việc. Ngoài ra có thể gửi kèm theo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó cơ quan công an có cơ sở để áp dụng các thủ tục pháp lý cần thiết như điều tra để xác minh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật; trưng cầu giám định tư pháp để xác định mức độ thiệt hại đối với cơ thể do hành vi gây thương tích gây ra. Kết luận giám định là căn cứ quan trọng để đánh giá hành vi cố ý gây thương tích có đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự hay không; đông thời cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    24/03/2017, 11:10:29 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Tội chống người thi hành công vụ được quy định như sau:
    “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm :
    a) Có tổ chức;
    b) Phạm tội nhiều lần;
    c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
    đ) Tái phạm nguy hiểm.”
    Hành vi chống người thi hành công vụ trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó. Tội phạm này được quy định nhằm đấu tranh phòng và chống các hành vi chống người thi hành công vụ, giữ gìn trật tự công cộng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người đang thi hành công vụ.
    Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, thông qua việc xâm phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công. Người đang thi hành công vụ nói tại Điều luật này rất đa dạng, có thể là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao một nhiệm vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, cá biệt cũng có trường hợp là công dân bình thường, họ được điều động thực hiện một công vụ cấp bách nào đó vì lợi ích chung cũng được xem là người thi hành công vụ.
    Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật và bị xâm hại thì hành vi của người có hành vi bị xâm hại không phải là hành vi chống người thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thức nhiệm vụ thì không thuộc trường hợp thi hành công vụ. Do vậy, tội phạm này chỉ bảo vệ những người thực hiện nhiệm vụ công, còn trường hợp công chức thực hiện công việc vì lợi ích hoặc động cơ cá nhân thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội phạm này.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    24/03/2017, 10:54:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Về mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản : Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối ở đây là đưa ra những thông tin không đúng sự thật để đánh lừa người khác. Hành vi này có thể thông qua lời nói; xuất trình giấy tờ giả mạo; giả danh cán bộ; giả danh tổ chức ký kết hợp đồng… và người bị lừa dối không thể nhận biết được những thông tin này là  gian dối.

    Như vậy, trong trường hợp của bạn, mẹ của bạn hoàn toàn có thể nhận thức được hành vi của mình mà hành vi của người này không thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối như sau: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”

    Trong trường hợp này, bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện người đó ra tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang sinh sống yêu cầu tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi khởi kiện tại tòa, bạn cần cung cấp chứng cứ chứng minh về việc giao dịch giữa hai bên. Tòa sẽ xác minh quan hệ giao dịch đó có đúng hay không. Nếu đúng như những gì bạn trình bày, tòa sẽ tuyên bố giao dịch vô hiệu và yêu cầu bên cầm cố trả lại tài sản cho bạn.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    24/03/2017, 09:56:36 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 8 Nghị định 14/2014/NĐ-CP quy định các công trình điện lực, không bao gồm nhà máy điện hạt nhân, khi không còn khai thác, sử dụng phải được xử lý, quản lý theo quy định của pháp luật về xây dựng, về bảo vệ môi trường và pháp luật khác liên quan thì: “Đối với lưới điện, phải tháo dỡ, thu hồi các kết cấu của lưới điện và hoàn trả mặt bằng trong vòng 06 tháng kể từ khi lưới điện được tách khỏi hệ thống điện;”
    Trường hợp cột điện trong đất nhà bạn có chỗ để di dời đảm bảo an toàn truyền tải bạn có quyền yêu cầu di dời và không phải chịu chi phí. Thông thường người yêu cầu sẽ phải chịu toàn bộ chi phí. Việc di dời sẽ liên quan trực tiếp đến: Chủ đầu tư, đơn vị thiết kế, đơn vị thi công, phần đất trồng trụ điện có phải là đất của bạn, trụ điện khi di dời sẽ được di dời vào đâu, việc đảm bảo an toàn điện,… từ đó họ sẽ đưa ra cách thức thực hiện.
     Do vậy, theo tình huống của bạn nêu trên thì việc cơ quan truyền tải điện đã xây dựng hệ thống dây dẫn là cây cột điện cũ mà bên điện lực nay không sử dụng. Vì thế, bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu đơn vị di dời đường dây ra vị trí khác để đảm bảo cho việc xây dựng công trình trên đất hợp pháp của mình. Việc di dời là trách nhiệm của họ chứ bên yêu cầu không có trách nhiệm trả chi phí di dời.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    23/03/2017, 08:51:20 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Thửa đất đã được gia đình anh sử dụng ổn định nếu chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và anh cũng không có các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật đất đai chứng minh quyền sử dụng đất. Do đó, muốn xin cấp giấy phép xây dựng anh cần tới UBND phường nơi có thửa đất tọa lạc để xin xác nhận của UBND phường về hai nội dụng sau (Có mẫu giấy xác nhận tại UBND phường). Nếu bạn không có các giấy tờ nêu trên nhưng đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 1/7/2004, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt.
    Khi UBND phường đã xác nhận nội dung trên và được UBND quận thẩm tra kết quả xác nhận, anh cần nộp bộ hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ của UBND quận để xin cấp phép xây dựng.
    Sau khi tiếp nhận hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng, UBND quận Hà Đông kiểm tra tại thực địa và thẩm tra hồ sơ. Nếu hồ sơ chưa hoàn chỉnh, trong thời gian tối đa là 7 ngày làm việc (kể từ ngày nhận được hồ sơ), cơ quan tiếp nhận hồ sơ sẽ thông báo bằng văn bản cho gia đình biết nội dung yêu cầu bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ.
    Ngôi nhà gia đình anh dự kiến xây dựng thuộc loại nhà ở riêng lẻ, vì vậy theo quy định tại Quyết định số 04/2010/QĐ-UBND, thời hạn cấp giấy phép xây dựng là không quá 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
     
  • Xem thêm     

    21/03/2017, 05:13:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, theo quy định của pháp luật lao động thì người lao đổng chỉ có thể khiếu nại đến cơ quan quản lý nhà nước về lao động ( Phòng lao động thương binh xã hội ) hoặc khiếu nại, tố cáo đến thanh tra lao động để giải quyết. Vì 2 cơ quan này có nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định tại điều 235, điều 237 Bộ luật lao động 2013. Nếu sau khi gửi đơn đến 2 cơ quan trên tiến hành giải quyết mà công ty vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ, hoặc bạn thấy quyết định của họ chưa thỏa đáng thì bạn cũng có thể gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Nếu công ty vi phạm các nghĩa vụ trên thì người kế toán của công ty cũng không có quyền lấy tài sản(tiền) của công ty trả tiền lương cho người lao động vì rất có thể sẽ cấu thành tội phạm, ví dụ như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định Bộ luật hình sự 1999(sửa đổi bổ sung 2009) hoặc tội Trộm cắp tài sản tùy thuộc vào dấu hiệu hành vi của bạn. Việc mức án như thế nào thì tuỳ thuộc vào thuộc tội cụ thể nào thì mới có thể tư vấn cho bạn được

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 05:02:34 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Điều kiện để được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn thành đất ở là mảnh đất của bạn phải phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.

    Như vậy khi được nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì bạn phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 1 Nghị định 46/2015:

    1. Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.

    2. Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở hoặc đất nghĩa trang, nghĩa địa có mục đích kinh doanh thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng đang sử dụng đất thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất.

    Điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định 45/2014 quy định: Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Giá đất ở và giá đất nông nghiệp để tính nghĩa vụ tài chính là theo khung giá được UBND tỉnh Tây Ninh nơi có đất ban hành hàng năm (Quyết định số 71/2014/QĐ-UBND ban hành bảng giá đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 12:14:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Tại khoản 3, Điều 3 Nghị định số 45/2014 ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định việc xác định diện tích đất trong hạn mức phải đảm bảo nguyên tắc mỗi hộ gia đình (bao gồm cả hộ gia đình hình thành do tách hộ theo quy định của pháp luật), cá nhân chỉ được xác định diện tích đất trong hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở một lần và trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

    Theo đó, bạn có nhiều thửa đất trong chuyển mục đích sử dụng đất lên thổ cư có phụ thuộc vào hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở nhưng tổng diện tích đất lựa chọn không vượt quá hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở tại địa phương nơi lựa chọn. Do đó bạn phải căn cứ vào Quyết định 18/2016/QĐ-UBND quy định hạn mức đất ở tại Tp Hồ chí Minh để tham khảo cho trường hợp của bạn

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 11:53:21 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Để chuyển thành đất thổ cư, bạn cần tiến hành thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất tại cơ quan tài nguyên và môi trường. Hồ sơ gồm: 

     Đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất;

    - Giấy chứng nhận QSDĐ;

    Biên bản xác minh thực địa;

    - Văn bản thẩm định nhu cầu sử dụng đất, thẩm định điều kiện cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

    - Trích lục bản đồ địa chính thửa;

    Nộp hồ sơ tại UBND cấp huyện. 

    Điều kiện để được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất ao thành đất ở là mảnh đất của bạn phải phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.

    Như vậy khi được nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bạn phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 1 Nghị định 45/2014/NĐ-CP:

    1. Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.

    2. Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở hoặc đất nghĩa trang, nghĩa địa có mục đích kinh doanh thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng đang sử dụng đất thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất.

    Điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định 45/2014 quy định: Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Giá đất ở và giá đất nông nghiệp để tính nghĩa vụ tài chính là theo khung giá được UBND tỉnh nơi có đất ban hành hàng năm.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 11:39:23 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Hành vi xây dựng lấn chiếm vỉa hè, đường phố là hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và giao thông đường bộ, đường sắt. Trình tự, thủ tục để xử lý vi phạm như sau:

    Khi phát hiện hành vi vi phạm này thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính.

    Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày kể từ ngày lập biên bản xử phạt hành chính, người có thẩm quyền sẽ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian này có thể kéo dài tối đa 30 ngày nếu là trường hợp phức tạp hoặc cần giải trình theo quy định của Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.

    Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, ngoài các hình thức xử phạt hành chính, người vi phạm còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả  quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật này như buộc phục hồi tình trạng ban đầu, buộc tháo dỡ công trình, phần công trình … Nếu xét thấy cần khắc phục hậu quả kịp thời, đảm bảo giao thông thì người có thẩm quyền có thể tổ chức thi hành các biện pháp khắc phục hậu quả trên.

    Trong thời hạn 02 ngày, kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt gửi quyết định xử phạt cho người bị xử phạt.

    Người bị xử phạt cần phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, trừ trường hợp có quy định khác. Sau thời hạn này, nếu không tự nguyện thi hành, người có thẩm quyền sẽ ra quyết định cưỡng chế thi hành.Một số biện pháp cưỡng chế thi hành như: kê biên tài sản,buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả… 

    Nếu quá trình xử lý vi phạm hành chính sai quy định pháp luật, bạn bị ảnh hưởng có thể khiếu nại quyết định xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì cá nhân, tổ chức bị xử lý vi phạm hành chính có quyền khiếu nại, khởi kiện tại tòa đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật trong việc xử lý vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, có trách nhiệm liên quan thì người dân được quyền tố cáo.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn!

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 11:21:59 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Khi người tham gia giao thông gây tai nạn dẫn đến chết người, người gây ra tai nạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Đối với tội này, chủ thể thực hiện hành vi phải vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (ví dụ như phóng nhanh vượt ẩu, đi sai làn đường, …), hành vi vi phạm phải gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.a

    Theo thong tin bố bạn đã có hành vi vi phạm theo Điều 202 Bộ luật hình sự 1999(sửa đổi bổ sung 2009) vừa nói ở trên thì mức hình phạt cụ thể đối với Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

     2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn!

  • Xem thêm     

    21/03/2017, 11:11:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Việc xác định đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) gia đìnhđình bạn đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:
    1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
    a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.
    Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;
    b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;
    c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;
    d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.
    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
    a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.
    Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;
    b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này;
    c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này;
    d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.
    3. Trường hợp thửa đất có nhiều hộ gia đình, cá nhân cùng sử dụng chung thì hạn mức đất ở quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này được tính bằng tổng hạn mức đất ở của các hộ gia đình, cá nhân đó.
    Trường hợp một hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhiều thửa đất có nhà ở có nguồn gốc của ông cha để lại hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất có nguồn gốc của ông cha để lại, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 và không vi phạm pháp luật đất đai thì hạn mức đất ở được xác định theo quy định đối với từng thửa đất đó.
    4. Việc áp dụng quy định về hạn mức đất ở của địa phương để xác định diện tích đất ở trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này được thực hiện theo quy định tại thời điểm người sử dụng đất nộp hồ sơ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hợp lệ.
    5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc nhóm đất nông nghiệp từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
    a) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai; diện tích đất nông nghiệp còn lại (nếu có) phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước;
    b) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức thuê đất của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng; thời hạn thuê đất được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 126 và Khoản 4 Điều 210 của Luật Đất đai;
    c) Đối với đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở, công trình xây dựng khác mà không được công nhận là đất phi nông nghiệp quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo mục đích hiện trạng đang sử dụng như trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này; nếu người sử dụng đất đề nghị chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
    6. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong các trường hợp quy định tại Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật.
    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều này mà không đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì được tạm thời sử dụng đất theo hiện trạng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định.
    Như vậy, trong trường hợp này của bạn, gia đình bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mình vì gia đình  bạn đã sử dụng ổn định từ trước cho đến nay.
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn!
     
  • Xem thêm     

    17/03/2017, 04:51:52 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo khoản 1 khoản 3 Điều 188 Luật đất đai 2013, người sử dụng đất được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất không có tranh chấp.-Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.Trong thời hạn sử dụng đất. Việc chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
    Thửa đất mà bạn nêu ở trên có bìa đỏ và 2 bên thỏa thuận mua bán có giấy viết tay với xác nhận của UBND Xã nhưng vẫn chưa sang tên đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai thì người chủ sử dụng đất vẫn chưa là bạn.
    Tuy nhiên tại Khoản 2 Điều 82 Nghị định quy định: “Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau:
    a) Người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có;
    b) Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển quyền. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì phải đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương ba số liên tiếp (chi phí đăng tin do người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trả);”
    Tại Khoản 1 Điều 13 Nghị định 47  Bồi thường về đất cho người đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định: “Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai, các Điều 20, 22, 23, 25, 27 và 28 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất.”
    Như vậy, trường hợp của bạn phải thực hiện việc chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất(đã đúng quy định là đc chứng thực) phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thì bạn mới được bồi thường chính chủ theo quy định
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    17/03/2017, 04:24:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo khoản 1 khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, người sử dụng đất được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất không có tranh chấp.-Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.Trong thời hạn sử dụng đất. Việc chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
    Thửa đất mà bạn nêu ở trên có bìa đỏ và 2 bên thỏa thuận mua bán có giấy viết tay với xác nhận của UBND Xã nhưng vẫn chưa sang tên đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai thì người chủ sử dụng đất vẫn chưa là bạn.
    Tuy nhiên tại Khoản 2 Điều 82 Nghị định quy định: “Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau:
    a) Người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có;
    b) Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển quyền. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì phải đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương ba số liên tiếp (chi phí đăng tin do người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trả);”
    Tại Khoản 1 Điều 13 Nghị định 47  Bồi thường về đất cho người đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định: “Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai, các Điều 20, 22, 23, 25, 27 và 28 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất.”
    Như vậy, trường hợp của bạn phải thực hiện việc chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất(đã đúng quy định là đc chứng thực) phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thì bạn mới được bồi thường chính chủ theo quy định
     
  • Xem thêm     

    17/03/2017, 03:13:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn tôi tư vấn như sau:

    Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệpLuật thuế Thu nhập cá nhân quy định đối tượng nộp các loại thuế này là tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, trong lĩnh vực xây dựng nhà ở thì các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xây dựng là đối tượng phải đăng ký, kê khai nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đăng ký kinh doanh, hoặc nơi thực hiện xây dựng công trình.

    Luật quy định như trên, nhưng chuyện phổ biến lâu nay là nhiều nhà thầu tư nhân khi nhận xây dựng nhà ở của người dân thường không thực hiện kê khai nộp thuế theo quy định. Trường hợp cơ quan thuế thực hiện kiểm tra và có đủ cơ sở xác định tổ chức, cá nhân nhận thầu xây dựng nhà ở của các hộ gia đình không thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế đối với hoạt động nhận thầu xây dựng thì cơ quan thuế tiến hành các biện pháp truy thu đủ số thuế. Theo quy định của Luật Quản lý thuế, nhà thầu xây dựng phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn và bị xử phạt tiền chậm nộp cho toàn bộ thời gian trở về trước.

    Như vậy, hộ gia đình là người thuê xây dựng nhà ở, nên không phải là người nộp thuế, cơ quan thuế không thực hiện truy thu thuế đối với hộ gia đình. Tuy nhiên, nếu chủ nhà không có chứng từ chứng minh việc nộp thuế thuộc về nhà thầu, hoặc không tìm được chủ thầu xây dựng để truy thu thuế, thì chủ nhà chịu trách nhiệm thực hiện việc nộp thuế.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm 

  • Xem thêm     

    16/03/2017, 05:29:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:
    Theo Khoản 1 Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 quy định Hình thức giao dịch dân sự là: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.”
    Căn cứ quy định trên thì giữa nhân viên bảo vệ và khách hàng đã phát sinh hợp đồng gửi giữ tài sản bằng lời nói. Việc giao thẻ (vé) gửi xe là bằng chứng chứng minh cho quan hệ này. Còn trong trường hợp không giao thẻ xe thì cũng đã phát sinh hợp đồng gửi giữ giữa các bên (hợp đồng bằng lời nói). Vậy khi mất xe thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người trông giữ tài sản sẽ như thế nào?
    Không ai muốn tài sản của mình bị mất cắp. Nhưng nếu gặp phải trường hợp này, thì khách hàng sẽ nhận được bồi thường từ nhân viên bảo vệ hoặc người trông giữ tài sản. Vì khoản 4 điều 557 Bộ luật dân sự 2015 có quy định nghĩa vụ của người giữ tài sản là “Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”
    Như vậy, người trông giữ xe làm mất tài sản thì phải bồi thường thiệt hại, nếu khách hàng không nhận thẻ (vé) khi gửi xe: (do người trông giữ không yêu cầu lấy vé). Mặc dù lúc này đã phát sinh hợp đồng gửi giữ như đã phân tích ở phần đầu, tuy nhiên khách hàng lại thiếu bằng chứng chứng minh về vấn đề gửi xe, bởi lúc này trong tay không có vé gửi xe do người trông giữ phát hành. Và để có thể đòi được khoản tiền bồi thường này thì khách hàng phải tự mình chứng minh là có mặt tại địa điểm đó, có gửi xe...bằng hình ảnh được lấy từ hệ thống camera... Nếu may mắn ở những nơi có camera, hay có bằng chứng khác chứng minh có gửi giữ thì mới đòi được bồi thường, còn không chứng minh được thì coi như khách hàng sẽ mất luôn tài sản đó. Như vậy, khách hàng sẽ là người chịu thiệt thòi, mất tài sản một cách oan uổng.
    Bộ luật dân sự 2015 không quy định mức bồi thường cụ thể mà do các bên tự thỏa thuận với nhau. Mức bồi thường này sẽ căn cứ vào giá trị thực của tài sản mất, thời gian đã qua sử dụng...và theo sự thống nhất của các bên.
    Nếu giữa các bên không thể thỏa thuận được mức bồi thường thiệt hại thì bên mất tài sản có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật để đòi lại tài sản đã mất của mình.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    16/03/2017, 05:10:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013 cũng nghiêm cấm hành vi lấn, chiếm đất đai. Do đó, nếu hàng xóm xây hàng rào và lấn sang phần đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông thì đó là hành vi vi phạm pháp luật.
    Theo Điều 206 Luật Đất đai năm 2013, người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; ngoài việc bị xử lý theo quy định của pháp luật còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế.
    Theo khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
    Do đó, trước hết, Công ty có thể thương lượng, tự hòa giải với người lấn chiếm để giải quyết vụ việc.
    Trường hợp nêu ở trên đã hòa giải tại UBND cấp xã không thành, theo khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, Công ty bạn được quyền khởi kiện tại tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất tranh chấp cùng bị đơn cư trú để giải quyết.
     
    Trước hết, để đòi lại diện tích này, Công ty bạn cần phải chứng minh mình là người có quyền sử dụng đất. Thuộc trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục cấp.
    Do diện tích đất đang tranh chấp chưa được cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, nên rất khó để xác định ai là người có quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này. Do đó, để chứng minh Công ty là người có quyền sử dụng đất với diện tích đất người đó đang lấn chiếm, thì trong giấy tờ do cấp đất Công ty cần phải ghi nhận rõ về diện tích đất, vị trí thửa đất đồng thời có cắm mốc thửa đất. Hoặc trong hồ sơ địa chính tại địa phương có ghi nhận các thông tin này. Khi giải quyết các tranh chấp đòi lại QSDĐ mà một bên lấn chiếm thì cần phải thu thập đầy đủ các tài liệu về đất đai được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 như: sổ sách địa chính, sổ đăng ký ruộng đất, bản đồ địa chính, các tài liệu thể hiện mốc giới, tứ cận của thửa đất, … các tài liệu thể hiện hiện trạng thửa đất trước khi có việc lấn chiếm đất để có căn cứ xác định quyền sử dụng đất hợp pháp của mỗi bên.Theo đó, mới có thể xác định được các căn cứ để có cơ sở để đòi lại đất.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    15/03/2017, 09:04:59 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Bạn hãy liên lạc với tôi theo số 0978994377 để cần có sự trợ giúp!

  • Xem thêm     

    14/03/2017, 11:26:05 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ Khoản 1 Điều 15 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về phòng vệ chính đáng như sau: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

    Do đó, cô gái kia phải chứng minh được hành vi chống trả là cần thiết, tức là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến thân thể của mình. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù mức thương tích gây ra cho người kia lớn hơn mức thương tích cô gái phải chịu nhưng điều này là cần thiết để bảo vệ sức khỏe đang bị đe dọa của mình.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

109 Trang «<88899091929394>»