Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

16 Trang «<13141516>
  • Xem thêm     

    24/02/2017, 09:58:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Đá gà mạng (trái phép) được coi là tội tổ chức đánh bạc và tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Để khởi tố vụ án hình sự về tội tổ chức đánh bạc cần phải căn cứ vào hành vi cấu thành tội phạm quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 về Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như sau:
    “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật  này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,  thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm 
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: 
    a) Có tính chất chuyên nghiệp; 
    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; 
    c) Tái phạm nguy hiểm. 
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”
    Theo như bạn trình bày thì bạn được thuê đang coi máy đá gà mạng dùm ông anh. Mỗi ngày giao cho bạn cầm 30 đến 50 triệu. Tiền đá gà có thể lên đến hàng trăm triêu. Đây được coi là một tình tiết để cấu thành nên yếu tố "quy mô lớn". Tiền bạc hay gì đều là của chủ , bạn chỉ làm công ăn lương. Như vậy, người tổ chức đánh bạc (chủ sòng bạc) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điều 249 BLHS, còn bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội tổ chức đánh bạc. Về trách nhiệm của đồng phạm, Điều 20 BLHS quy định như sau:
    Như vậy, bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội tổ chức đánh bạc, tuy nhiên tùy vào những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng của bạn, Tòa án sẽ ra một hình phạt cụ thể cho bạn.
    Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng  cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
     
  • Xem thêm     

    11/02/2017, 11:17:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn nêu trên đối tượng Trần Văn G có bệnh tâm thần theo thông báo của gia đình cũng như của bệnh viện chuẩn đoán. Ngoài ra Cơ quan Điều tra cũng tiến hành trưng cầu giám định đến "Viện Pháp y Tâm thần Trung ương" và kết quả giám định như sau: “Trước, trong khi phạm tội và hiện tại (thời điểm giám định) bị can Trần Văn G có bệnh rối loạn loại phân liệt. Theo phân loại bệnh quốc tế lần 10 năm 1992 có mã bệnh F21. Tại thời điểm trên bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” Như vậy, Trần Văn G là người không có năng lực trách nhiệm do mắc bệnh như vậy được gọi là người trong tình trạng hạn chế năng lực hình sự.

    Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có sự phát triển bình thường về tâm - sinh lý sẽ có năng lựa năng lực trách nhiệm hình sự khi đã đạt độ tuổi nhất định - tuổi chịu năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị loại trừ do mắc các bệnh nhất định liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực trách nhiệm do mắc bệnh như vậy được gọi là người trong tình trạng không có năng lực năng lực trách nhiệm hình sự.

    Điều 13 bộ luật hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung  có quy định về tình trạng không có năng lực Trách nhiệm hình sự:

    "1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

    2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự".

    Từ các quy định trên, để xem xét về việc có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, phải căn cứ vào kết quả giám định, kết luận về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người đó.  

    Như vậy, người bị bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Bởi theo quy định thì người đó đang trong tình trạng không có năng lực năng lực trách nhiệm hình sự. Còn nếu trong trường hợp trước, trong, sau khi gây án và hiện tại, bị can (Trần Văn G) chỉ hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì vẫn phải chịu năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, việc hạn chế năng lực và điều khiển hành vi có thể được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt khi xét xử vụ án.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    01/02/2017, 08:38:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, chúng tôi tạm tư vấn từng vấn đề cụ thể bạn hỏi như sau:
    1. Trường hợp đã được bồi thường thiệt hại và có đơn bãi nại của người bị hại thì bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”. Toà án sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt.
    Căn cứ Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:” Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
    Bên cạnh đó, luật cũng cho phép người bị hại được quyền rút đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Bị cáo bị truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 139 Bộ luật hình sự. Tội này phù hợp với quy định trên là rút yêu cầu khởi tố của người bị hại nêu trên và không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố của kể cả tại phiên tòa xét xử phúc thẩm.
    2. Căn cứ Khoản 1 Điều 333Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.”Như vậy, bị cáo phải làm Đơn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án và nộp đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác.
    Căn cứ Điều 346 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như sau:
    1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
    2. Trong thời hạn 45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định:
    a) Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
    b) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
    3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm.
    4. Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
    Như vậy thời hạn đã được viện dẫn tại điều luật nêu trên.
    3. Vụ việc của bạn nêu, bị cáo bị giam giữ lại tại tòa với mức xử phạt 9 tháng tù, như vậy Tòa án đã xử tại phiên Tòa sơ thẩm và có thể bị cáo đã kháng cáo để Tòa Phúc thẩm tiếp tục giải quyết(phiên tòa lần 2). Khi có sự ảnh hưởng liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân thì bị cáo có thể liên hệ với luật sư để được tư vấn, định hướng và tham gia vào vụ việc để bảo vệ bào chữa tại Tòa án nhân dân là cách nhanh nhất để đảm bảo cho việc giải quyết vấn đề của đương sự, người có liên quan luôn tuân thủ quy định của pháp luật.
    Việc đầu tiên là bị cáo phải liên hệ trực tiếp với luật sư mà bản thân người liên hệ có dự định mời và hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn. Sau khi thống nhất tất cả những yêu cầu, chúng tôi sẽ nhanh chóng hoàn tất thủ tục để tham gia vào giải quyết vụ án. Người mời phải viết đơn yêu cầu luật sư bảo vệ tham gia bào chữa cho mình.
    4. Bị cáo bị tuyên phạt 9 tháng tù là tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Hình phạt tù có thời hạn là một loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với xã hội, họ phải lao động cải tạo trong trại giam dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng cảnh sát tư pháp. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, nhưng không quy định Tòa án trừ ngay khi quyết định hình phạt hay cơ quan công an trừ trong quá trình thi hành hình phạt trong trại giam?
    Nếu đến ngày tuyên án, người bị kết án không bị tạm giam, thì Tòa án phải tuyên trong bản án thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Nếu giao cho cơ quan công an quản lý tại giam trừ, thì hồ sơ thi hành án phải phản ánh đầy đủ thời gian tạm giam, tạm giữ đối với người bị kết án và việc này phải được quy định trong Bộ luật hình sự hoặc Luật thi hành án
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
    Ls. Vũ Văn Toàn
    Mobile: 0978 994 377
     
  • Xem thêm     

    18/01/2017, 03:08:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 5, Nghị định 167/2013/ND-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì Vi phạm quy định về trật tự công cộng bị Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: “Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;”

    Nếu bạn cho rằng hành vi xử phạt hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên không đúng bạn có thể thực hiện thủ tục khiếu nại hành vi hoặc quyết định hành chính đó theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011.  Khi đó, bạn có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì bạn khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp bạn hỏi và bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi theo số ĐT: 097894377 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/12/2016, 12:02:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp thì Tài đã bịt mặt đến trang trại tìm ông Dũng đánh để trả thù, khi đi đến trang trại thấy một người nhà bạn đang ngồi bên giếng trời nhá nhem tối nên Tài lầm tưởng người nhà bạn là ông Dũng nên đã cầm giao đè vào cổ, dẫn đến thương tích ở cổ và tay cho người nhà. Trong lúc đó ông Dũng từ trong nhà đi ra, Tài đã cầm dao đuổi ông Dũng nhưng ông Dũng, cùng người nhà tôi bỏ chạy được. Không đuổi được ông Dũng và người nhà tôi, Tài đã quay lại lán ở trang trại ngồi, lục lọi trong nhà phát hiện thấy điện thoại của ông Dũng nên Tài nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại rồi đi khỏi trang trại.

    Một số tội danh trong Bộ luật hình sự rất dễ nhầm lẫn nếu chúng ta không có cái nhìn sâu xa về nó, đặc biệt là các tội liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu

    Về tội Cướp tài sản theo Điều 133 Luật hình sự thì phải thỏa mãn hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, dùng sức mạnh vật chất tác động vào cơ thể của nạn nhân là con người (như: đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém….) để chiếm đoạt tài sản. Hành vi này có thể khiến nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe hoặc tử vong, nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể đe dọa người bị hại giao nộp tài sản. Nếu như tên Tài chiếm đoạt tài sản ngay lúc đó thì đủ cấu thành tội Cướp tài sản theo Điều 133 Luật hình sự.

    Tuy nhiên, hành vi Tài quay lại lán ở trang trại ngồi, lục lọi trong nhà phát hiện thấy điện thoại của ông Dũng nên Tài nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại rồi đi khỏi trang trại thì cấu thành tội  Trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật Hình sự.

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người bị thương tích hoặc bị tổn hại đén sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Theo Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Một trong các biểu hiện của tội phạm trộm cắp là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. “Chiếm đoạt” là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình. “Lén lút” là hành vi cố ý giấu diếm, vụng trộm không để lộ ra nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác; việc che giấu có thể là che giấu toàn bộ (với tất cả mọi người) hoặc công khai trước sự chứng kiến của nhiều người nhưng vẫn che giấu hành vi phạm tội với chủ tài sản…

    Trường hợp mà bạn nói đến thì người đó chỉ bị khởi tố khi có đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm. Và chỉ khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệc lực pháp luật thì người đó mới bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản và phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật. Việc kết tội người đó sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, quyết định dựa trên những chứng cứ thu thập được. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào hồ sơ tài liệu, lời khai, các tình tiết khách quan của vụ án thì mới có thể làm rõ được các hành vi phạm tội cụ thể mà bạn đang hỏi ở trên.

    Trường hợp bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên hệ trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    13/12/2016, 03:33:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo Điều 103 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì đe dọa giết người bị coi là tội phạm là hành vi đe dọa giết người mà hành vi đó có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện.

    Người bị coi là phạm tội là người có hành vi thể hiện sẽ tước đoạt tính mạng người khác.

    Hành vi đe dọa này có thể thực hiện qua điện thoại, tin nhắn, email, lời nói, cử chỉ… đã làm tâm lý  người bị đe dọa lo sợ một cách có căn cứ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện và khi đó hành vi này sẽ cấu thành tội phạm.

    Tội phạm này xâm phạm đến quyền được sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Loại tội phạm này chỉ được coi là tội phạm ít nghiệm trọng có khung hình phạt có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm (khoản 1, Điều 103). Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết tăng nặng thuộc (điểm a,b,c,d, khoản 2, Điều 103) bị coi là tội phạm nghiêm trọng có khung hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự  khi có các tình tiết giảm nhẹ hoặc tác hại gây ra không lớn … thì được gia đình hoặc cơ sở được chỉ định nhận giám sát, giáo dục.

    Như vậy, hành vi nhắn tin đe dọa gây thương tích mặc dù đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và không có dấu hiệu của tội phạm. Tuy nhiên, đây là hành vi trái pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, hành vi  này cũng được điều chỉnh bởi Điểm g Khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. Theo đó, người nào có hành vi “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” thì có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.”

    Bạn có thể tố cáo hành vi của người đó với cơ quan công an nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bạn và gia đình để ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy gọi điện thoại cho tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    01/12/2016, 11:45:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn cung cấp thông tin là đã ra tòa 1 lần...xét xử trong 2 ngày...và tòa nói là điều tra thêm, lần thứ 2 ra tòa thì nói là hồ sơ chưa đầy đủ là trường hợp vụ án được trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

    Tại Khoản Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại như sau: "Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra".

    Với quy định này, thời hạn điều tra bổ sung của cơ quan điều tra là 1 tháng, sau đó, phải chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát để xem xét lại việc truy tố (tùy thuộc vào kết quả điều tra bổ sung có làm thay đổi nội dung cáo trạng đã truy tố hay không).

    Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng. Như vậy, thời hạn dành cho Viện kiểm sát giải quyết hồ sơ được điều tra bổ sung tối đa (đối với tội phạm ít nghiêm trọng) cũng là 30 ngày (Khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự).

    Về thời hạn chuẩn bị xét xử của tòa án, Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

    "Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày".

    Như vậy, theo quy định này thì thời hạn tối đa để mở phiên tòa là 45 ngày, kể từ ngày tòa án nhận lại hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang.

    Trường hợp bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy gọi điện thoại cho tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    26/11/2016, 11:17:43 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Bạn muốn mang theo một số dụng cụ dao găm và cui điện để phòng thân như thế là đã sử dụng các loại vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ thì bạn sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng công cụ hỗ trợ mà chưa được phép 

    Căn cứ Điểm d, đ và g của Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ban hành ngày 12/11/2013 xử phạt vi phạm quy định về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm có quy định: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    d) Sử dụng các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trái quy định nhưng chưa gây hậu quả;

    đ) Sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép;

    g) Không giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định.

    Như vậy, căn cứ vào điểm d,  đ và g của  khoản 3 Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì với hành vi sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Mức tiền phạt đối với hành vi này là từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng. Ngoài ra, hình thức xử phạt bổ sung đối với hành vi này là buộc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (căn cứ điểm a khoản 8 Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP).

    Trong trường hợp bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy gọi điện cho tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    16/11/2016, 05:24:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Các hành vi vi phạm pháp luật trong Game Online đã gây nhiều thiệt hại về kinh tế, uy tín đối với các doanh nghiệp Online Game, doanh nghiệp thông tin di động và người sử dụng dịch vụ. Không những thế, còn tạo ra dư luận xấu, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến trật tự, an ninh xã hội. Do đó, mọi hành vi hack game online đều có dấu hiệu vi phạm pháp luật hay. Cụ thể, phải kể đến các hành vi sử dụng phần mềm gây hại tấn công (hack) cơ sở dữ liệu, hệ thống thiết bị cung cấp trò chơi của các doanh nghiệp cung cấp Online Game, viết các phần mềm hỗ trợ người chơi khả năng chơi tự động (phần mềm Auto Play) không được sự đồng ý của doanh nghiệp, lập diễn đàn trên Internet để trao đổi mã nguồn

    Theo đó, bạn phải chấm dứt ngay hành vi về hack game online cho dù bạn tự viết 100% và không copy hay lấy của ai

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy gọi điện cho tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    14/11/2016, 10:17:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Vụ việc này đã được tôi trả lời cho bạn trước đây. Việc bạn nêu ở trên trong phàn hỏi này còn thiếu và nhiều vấn đề không phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, để được tư vấn cụ thể và chính xác ơn bạn hãy vui lòng liên hệ Điện thoại trực tiếp với tôi .

    Trân trọng

  • Xem thêm     

    02/11/2016, 04:15:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Công ty bạn do bạn làm giám đốc, có 01 kế toán viên vi phạm như: bán hàng thu tiền của khách nhưng vào phần mềm cty ít hơn , tư ý đưa giá với khách cao hơn giá công ty quy định và tư lợi phần giá chênh lệch đó, tự ý kê thêm hàng hóa khống để thanh toán với khách hàng mà ko báo qua công ty để tư lợi cá nhân, thu nợ của khách hàng đã lâu( 2 tháng) nhưng không nôp về công ty. Sau khi công ty phát hiện thì quyết định buộc thôi việc và bắt bàn giao công việc, nhưng cô ấy không bàn giao công việc, và phủ định mọi việc làm sai trái, nhưng việc có bằng chứng thì cô ấy bảo nhầm hoặc ko nhớ, hoặc ko nói gì. và còn có ý thách thức công ty báo công an. Do đó, bạn hỏi:

    1. Những vi phạm như trên thì có đủ để cho kỷ luật thôi việc không(đã cho thôi việc)

    Theo như bạn nói ở trên thì cho thôi việc theo hình thức sa thải hay đơn phương chấm dứt hợp đồng đều không nói rõ nên ta cứ tạm cho hình thức thôi việc cao nhất ở đây là sa thải nên Căn cứ vào Điều 126 Bộ luật lao động 2012 thì hình thức sa thải chỉ áp dụng khi xảy trường hợp sau đây: Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;

    Hành vi của kế toán viên nêu trên là hành vi trộm cắp, tham ô của công ty nên hành vi này Công ty phải chứng minh lỗi của hành vi đó thì mới có quyền sa thải. Công ty sa thải đúng thì phải chứng minh hành vi đó là đúng, nhưng ngược lại việc kế toán viên chứng minh được hành vi đó không phải do mình gây ra là không đúng thì sa thải của công ty bạn là không đúng.

    2. Không bàn giao công việc như vậy có vi phạm luật không?

    Theo Khoản 2 Điều 47 Bộ luật lao động 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể là:"Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày".

    Do hai bên vẫn có sự mâu thuẫn và gần như có sự tranh chấp về lao động và việc chứng minh hành tham ô, trộm cắp của hai bên còn tranh cãi. Việc sa thải đúng hay không đúng vẫn còn trong sự tranh chấp, sa thải đúng quy trình chưa? nên chưa thể khẳng định việc bàn giao đó có vi phạm luật hay không. Thông thường Kế toán viên phải bàn giao việc theo đúng điều luật đã được viện dẫn ở trên.

    3.  Có thể báo công an vì tôi lừa đảo chiếm đoạt tải sản không? trình tự thủ tục như thế nào? báo cấp nào giải quyết?

    Nếu hành vi đó là đúng thì Công ty bạn có toàn quyền để thực hiện việc trình báo và tố giác hành vi này. Thông thường hành vi này được quy tội Lạm dụng chiếm đoạt tài sản hoặc lừa đảo. Công ty bạn có thể làm đơn tố giác, tố cáo hành vi này tới cơ quan công an.

    4. Tiền chiết khấu khách hàng nếu cơ quan công an biết thì có ảnh hướng gì tới khách hàng không? ( vì đây là vấn đề tế nhị nên cty củng rất ngại)

    Việc tiền chiết khấu nếu là hợp pháp thì bạn không phải ngại và cũng không phải lo lắng vấn đề này vì chiết khấu (hoa hồng) được quy định cụ thể nên không thể ngại được. Do đó, Công ty bạn phải trình báo nếu không dám làm đơn tố cáo hay tố giác.

    5. Số bảo hiểm cô ấy muốn lấy nhưng lại ko lên lấy mà bảo gửi người khác thì công ty không đưa vậy cty có vi phạm ko?

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động có trách nhiệm “bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của người lao động trong thời gian người lao động còn làm việc”“trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động khi người đó không còn làm việc”. Do đó, Công ty bạn phải trả sổ BHXH cho Kế toán viên, việc không đến lấy thì banj phải cử người giao tận tay có ký nhận cụ thể hoặc thông báo bằng văn bản cho người lao động đến nhận sổ.

    6.  Công ty có đươc quyền trừ lương còn lại vào các khoản nợ đó không?( có một số khoản cô ấy nhận đã thu, và 1 số khoản khách hàng có phiếu chi xác nhận đã thu, còn 1 số cô ấy ko nhận)

    Nếu Công ty bạn vẫn cố tình trừ lương người lao động vào các khoản nợ theo đúng quy định và phải được hai bên đồng ý bằng văn bản. Nếu người lao động đơn không đồng ý họ vẫn có quyền khởi kiện người sử dụng lao động ra Tòa án có thẩm quyền để buộc người sử dụng lao động trả lại khoản tiền đó cộng với khoản tiền bồi thường thiệt hại cho người lao động, nếu có phát sinh thiệt hại.

    7.  Khi chốt công nợ thì bảng công nợ gửi cho khách hàng cao hơn công nợ thực tại công ty, cái chênh lệch này cô ấy tư lợi  thì cái này đưa vào tội lừa đảo có đúng ko?

    Việc này bạn hãy làm đơn trình báo và tố giác với cơ quan chức năng có thẩm quyền. Hành vi của người lao động sẽ được cơ quan chức năng điều tra làm rõ một cách khách quan nhất theo yêu cầu của công ty. Nếu người đó có phạm tội hay không sẽ được cơ quan điều tra kết luận.

    Trên đây là nội dung trả lời cho trường hợp của bạn, hy vọng có thể giúp bạn trong quá trình giải quyết việc này. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc nào khác vui lòng liên hệ trực tiếp với tôi

  • Xem thêm     

    01/11/2016, 11:14:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ Khoản 6 Điều 7 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2014 quy định  hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: “Hành hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em; lợi dụng trẻ em vì mục đích trục lợi; xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, người giám hộ hoặc xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác;”

    Căn cứ Khoản 1 Điều 8 Nghị định 71/2011/ NĐ - CP quy định hành hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua, bán, đánh tráo trẻ em như sau: Xâm phạm thân thể, đánh đập, đối xử tồi tệ đối với trẻ em; bắt trẻ em nhịn ăn, uống, mặc rách, hạn chế vệ sinh cá nhân; giam hãm trẻ em; bắt trẻ em sống ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm. 2. Gây tổn thương về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, lăng nhục, chửi mắng, đe dọa, làm nhục, cách ly, sao nhãng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em. 

    Người mẹ kế có hành vi xâm phạm tới thân thể, đánh đập đối với em trai đã vi phạm quy định tại Khoản 6 Điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Khoản 1 Điều 8 Nghị định 71/2011/ NĐ - CP nêu trên nên hành vi xâm phạm thân thể, đánh đập của người mẹ kế thì hành vi trên có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/ NĐ- CP: "Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác".
    Trường hợp người mẹ kế có hành vi đánh đập dẫn đến hậu quả gây thương tích nặng cho con chồng thì trường hợp hành vi  này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự:“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”

    Trên đây là nội dung trả lời cho trường hợp của bạn, hy vọng có thể giúp bạn trong quá trình giải quyết việc này. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc hoặc chưa hiểu thì vui lòng liên hệ trực tiếp với tôi.

  • Xem thêm     

    31/10/2016, 10:46:23 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn nên làm Đơn tố giác tội phạm đến các cơ quan chức năng để được xử lý kịp thời. Hành vi của người mượn xe đó có dấu hiệu phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Nội dung đơn bạn phải tự viết vì bạn là người trong cuộc mới hiểu để tường trình với cơ quan chức năng.

    Trên đây là nội dung trả lời cho trường hợp của bạn, hy vọng có thể giúp bạn trong quá trình giải quyết việc này. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc hoặc chưa hiểu thì vui lòng liên hệ trực tiếp với tôi.

  • Xem thêm     

    30/10/2016, 05:28:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo như nội dung bạn trình bày, đối với hành vi nhận tiền xin việc nó là hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác người đó đã sử dụng số tiền và không hoàn trả được cho bạn khi nhờ xin việc.

    Như vậỵ hành vi của người bạn nhờ xin việc có dấu hiệu cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009): Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    Trên đây là một số tư vấn cơ bản của tôi. Nếu bạn chưa hiểu hoặc có thắc mắc gì thì bạn hãy liên lạc với tôi để được tư vấn cụ thể 

  • Xem thêm     

    29/10/2016, 08:20:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Nhầm, không xóa được

     

     

  • Xem thêm     

    28/10/2016, 03:01:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, tôi tư vấn như sau:

    Dâm ô đối với trẻ em là hành vi của người đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất loạn dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Theo đó, Điều 116 của Bộ luật Hình sự  quy định “Tội dâm ô đối với trẻ em” như sau:

    1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều trẻ em;

    c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.           

    3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

    Từ căn cứ ở trên, có thể nhận thấy người phạm tội phải là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở lên). Hành vi dâm ô được thể hiện đa dạng như sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thỏa mãn dục vọng, nhưng không có hành vi giao cấu với nạn nhân. Người bị hại phải là người dưới 16 tuổi. Nạn nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép, buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể đồng tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội. Do nạn nhân là trẻ em, bị hạn chế khả năng nhận thức và thực hiện hành vi một cách đúng đắn nên việc nạn nhân có đồng thuận hay không sẽ không ảnh hưởng đến việc định tội danh đối với tội phạm này.

    Từ những phân tích nêu trên, nếu như thông tin của bạn nhắc đến thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên thì sẽ bị truy tố về “Tội dâm ô đối với trẻ em” (Điều 116 Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, vụ việc đã được các cơ quan chức năng tiến hành điều tra, xác minh nên việc người kia có phạm tội hay không đã rõ. Tuy nhiên, nếu bạn thấy cơ quan điều tra không khách quan trong việc giải quyết vụ việc thì bạn có quyền khiếu nại tới cơ quan đã giải quyết việc này và Viện kiểm sát cùng cấp; và nếu không đồng ý với cách giải quyết đó bạn có thể khiếu nại tới cơ quan cấp trên.

    Trên đây là nội dung trả lời cho trường hợp của bạn, hy vọng có thể giúp bạn trong quá trình giải quyết việc này. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc nào khác vui lòng liên hệ trực tiếp với tôi theo số ĐT: 0987476885

  • Xem thêm     

    20/10/2016, 09:44:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Đề nghị không tiếp tục spam bài và chúng ta chấm dứt trao đổi ở đây. Nếu có thắc mắc hoặc trao đổi vấn đề gì bạncó thể trao đổi trực tiếp với tôi.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    19/10/2016, 09:40:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Như bạn nêu chỉ có thông tin một chiều và cũng không tiếp cận được hồ sơ vụ việc do bạn bị khởi tố như trên nên tôi không thể trả lời tư vấn cụ thể cho bạn được
    Về án treo thì căn cứ theo tiểu mục 6.1 mục 6 Nghị quyết Số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 (Nghị quyết 01), để được hưởng án treo, người phạm tội phải đáp ứng các điều kiện sau:
    - Bị xử phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt về tội gì;
    Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá 3 năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo.
    - Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng.
    - Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.
    - Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
    Trên đây là ý kiến tư vấn tôi về câu hỏi của bạn. Trường hợp có điều gì chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn chưa hiểu hết vấn đề thì bạn hãy liên hệ trực tiếp với tôi
     
  • Xem thêm     

    29/08/2010, 05:29:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo điểm C điều 17 Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 quy định người nào lợi dụng trẻ em vào mục đích trục lợi, bắt trẻ em đi ăn xin, cho thuê, cho mượn trẻ em..., ngoài việc xử lý hành chính phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà phải xử lý nghiêm trước pháp luật.
  • Xem thêm     

    18/08/2010, 09:42:10 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Chào bạn.
    Trường hợp của bạn tôi xin được trao đổi như sau:
    Trong Bộ luật hình sự không quy định rõ ràng về tội này mà tùy từng trường hợp có thể áp dụng vào các tội danh khác. Trường hợp bắt trẻ em với mục đích cho đi ăn xin để đem tiền về cho mình có lẽ chỉ xử lý hành chính, Theo điểm C điều 17 Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 quy định về xử phạt vi phạm hành chính về dân số trẻ em, người nào lợi dụng trẻ em vào mục đích trục lợi, bắt trẻ em đi ăn xin, cho thuê, cho mượn trẻ em..., ngoài việc xử lý hành chính phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà phải xử lý nghiêm trước pháp luật.
    Trân trọng chào bạn
16 Trang «<13141516>