Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

15 Trang «<1112131415>
  • Xem thêm     

    04/08/2017, 08:56:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Với hành vi làm sai thông tin trên giấy tuyển sinh nhằm mục đích để được cộng điểm theo vùng, cháu bạn đã vi phạm quy định trong hoạt động tuyển sinh. Theo quy định tại khoản 1 điều 8 Nghị định 79/2015/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp:

    Điều 8. Vi phạm quy định về tuyển sinh đào tạo

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi khai man hồ sơ tuyển sinh.

    ….
    7. Biện pháp khắc phục hậu quả:

    a) Buộc hủy bỏ kết quả trúng tuyển hoặc quyết định trúng tuyển đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 6 Điều này;

    b) Buộc hoàn trả cho người học các khoản tiền đã thu đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 6 Điều này; trường hợp không xác định được người học để hoàn trả thì nộp vào ngân sách nhà nước;

    c) Buộc thông báo công khai việc dừng tuyển sinh trên phương tiện thông tin đại chúng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 5 và Khoản 6 Điều này.
    Trong trường hợp này, kẻ tống tiền đã phát hiện ra hành vi của cháu bạn và uy hiếp gia đình. Nên chúng tôi khuyên bạn nên nhờ tới sự can thiệp của cơ quan công an và tố cáo hành vi tống tiền của người này. Và phía cháu bạn cần phải chấp nhận chịu trách nhiệm về hậu quả mà mình đã gây ra trước đây vì đây là lỗi của cháu bạn. Nếu bạn đưa tiền cho hắn thì sau này sớm muộn gì hắn cũng sẽ tiếp tục tống tiền, không thể nào dừng lại được. Hành vi gian dối của cháu bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì không đủ cấu thành tội hình sự. Nhưng do cháu bạn đang làm công chức nên nặng nhất sẽ bị xử lý kỉ luật buộc thôi việc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    02/08/2017, 08:00:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, sau nhiều lần gạ em bán cắm xe không thành, hắn đã nhân lúc em bạn không để ý dùng gạch đã chuẩn bị đập sau gáy, khiến em bạn bị thương. Sau đó, hắn đã thực hiện hành vi tội phạm đến cùng, bằng cách lấy cục gạch đó đánh mạnh vào trán nhằm mục đích để e bạn chết hẳn. Sau đó vứt xác xuống cống và lấy mấy cái bao tải xung quanh tấp lên người e tôi và lấy cây lục bình xung quang đó phủ kín lại nhằm mục đích phi tang xác. Như vây, mục đích của hắn là cướp chiếc xe máy và bằng cách giết em bạn thì hắn mới đạt được mục đích của mình. Hành vi giết người cướp tài sản của hắn đã cấu thành “Tội cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 điều 133 bộ luật hình sự 1999: “4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;”

    Theo quy định trên, khung hình phạt hắn phải chịu sẽ giao động từ 18 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Kèm theo đó, hắn sẽ phải chịu thêm các tình tiết tăng nặng với hành vi thực hiện tội phạm đến cùng và gây hâu quả đặc biệt nghiêm trọng (chết người). Hành vi của hắn đã cấu thành thêm tình tiết tăng nặng, theo quy định tại điểm e, k khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự 1999:
    Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:……

    e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;……

    k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;”
    Về vấn đề đền bù và chi phí mai táng, theo quy định tại điều 591 về việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng của người khác: 

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
    Như vậy, theo quy định trên gia đình bạn sẽ được nhận đầy đủ chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà em bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng và các khoản chi phí khác. Khoản bồi thường do gia đình bạn và phía bên kia tự thỏa thuận nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không qua 100 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định. Như vậy, khi gia đình bên kia đến để xin đền bù, chi phí mai táng gia đình bạn có quyền nhận và đưa ra mức chi phí để được đền bù. Trường hợp nếu không thỏa thuận được mức bồi thường thì khi trong giai đoạn xét xử, gia đình bạn đưa ra yêu cầu và các chứng cứ chứng minh đầy đủ chi phí mai táng, các khoản bồi thường khác để tòa án giải quyết. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    31/07/2017, 02:29:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, người thanh niên này đã đánh người thanh niên khác do nghi ngờ có quan hệ tình cảm với bạn gái mình, trong lúc đang say rượu.
    Thứ nhất, có thể áp dụng xử phạt vi phạm hành chính theo điểm a khoản 2 điều 5 Nghị định 167 về hành vi đánh nhau không?
    Theo quy định tại điểm a,c Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính:
    “Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;
    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;
    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;
    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;
    e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;
    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;
    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.”
    Do người thanh niên này đã có hành vi đánh người kia nên có thể áp dụng theo điểm a khoản 2 Điều 5 và ngoài ra thực hiện hành vi trong tình trạng say xỉn nên sẽ áp dụng thêm cả điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.
    Thứ hai, tình tiết tăng nặng đối với hành vi của thanh niên này là gì để áp dụng khung hình phạt là 1.000.000đ.
    Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 về tình tiết tăng nặng, được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012:
    “Những tình tiết sau đây là tình tiết tăng nặng:
    a) Vi phạm hành chính có tổ chức;
    b) Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
    c) Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
    d) Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;
    đ) Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
    g) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
    h) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
    i) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
    k) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
    l) Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
    m) Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
    2. Tình tiết quy định tại khoản 1 Điều này đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.”
    Do bạn cung cấp thông tin về người thanh niên này chưa đầy đủ, nên chúng tôi không thể tư vấn cụ thể cho bạn là người này có tình tiết tăng nặng nào không ? Ví dụ : người thanh niên này có đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính trước đó không? Nên bạn có thể căn cứ quy định trên để xác định tình tiết tăng nặng đối với người thanh niên này. Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung hình phạt được quy định với hành vi đó, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    31/07/2017, 11:52:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo như thông tin bạn cung cấp, có game đánh bài rikvip trên ios qua hình thức nạp thẻ và có thể đổi thưởng ra thẻ điện thoại hoặcchuyển tiền vào tài khoản ngân hàng cho bạn khi thắng. Về hành vi “đánh bạc trái phép” đã được giải thích tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Theo đó, không cần phân biệt việc bạn đánh bạc dưới hình thức nào, chỉ cần bạn tham gia với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp, bạn đã có hành vi đánh bạc.
    Theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự hiện hành (Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009) quy định một người phạm tội đánh bạc khi: “Đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
    Hiện nay, trên mạng có rất nhiều game đánh bài nhưng chỉ những game nào được cấp phép bởi Bộ Thông tin và Truyền thông mới được coi là hợp pháp. Những game đánh bài được cấp phép này chỉ mang tính chất giải trí vì số tiền để người chơi đánh bài chỉ là tiền “ảo” (không có giá trị quy đổi ra tiền thật) chứ không phải được thua bằng tiền, hiện vật thực. Việc người chơi nạp thẻ game để được chơi các game này chỉ mang tính chất là trả tiền phí dịch vụ cho người tạo lập và duy trì trang web giải trí này.
    Vì vậy, việc tham gia vào game đánh bài rikvip trên ios thông qua hình thức nạp thẻ và quy đổi thành tiền hoặc thẻ điện thoại là hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất mức độ của hành vi vi phạm thì bạn có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại Nghị định 174/2013/NĐ-CP hoặc xử lý hình sự (nếu có giá trị từ hai triệu đồng trở lên) theo quy định tại Điều 248: Tội đánh bạc Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    30/07/2017, 10:08:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trước hết, căn cứ theo K2 - Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự(BLTTHS) quy định: “Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.”

    Căn cứ Điểm a Khoản 3 Điều 155 BLTTHS quy định: Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định: “Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;”

    Như vây, đối với trường hợp bạn hỏi thì Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát,… sẽ có quyền ra quyết định trưng cầu giám định về tỷ lệ thương tật. Theo đó, em bạn bị chém một vết ngang đùi, quá trình điều trị bác sĩ phải mổ vào chỗ vết thương để nối dây thần kinh và có để thêm sẹosau khi mổ.

    Theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Thông tư số 20/2014/TT-BYT quy định : “Mỗi tổn thương cơ quan của cơ thể và mỗi di chứng do tổn thương này gây ra chỉ được tính tỷ lệ %  Tổn thương cơ thể (TTCT) một lần. Trường hợp tổn thương cơ quan này nhưng gây biến chứng ở cơ quan thứ hai đã được xác định, thì tính thêm tỷ lệ % TTCT do di chứng tổn thương trên cơ quan thứ hai.”

    Như vậy, vết sẹo đó là di chứng để lại do quá trình điều trị vết thương bị chém của B. Nên vết sẹo đó được tính tỷ lệ phần trăm thương tật cơ thể một lần cùng với tổn thương cơ thể ban đầu do bị chém và khi giám định thương tật đối với B thì sẽ được tính thêm phần trăm thương tật vết mổ do bác sĩ gây ra. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    15/06/2017, 10:54:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn hỏi, tôi tư vấn như sau:

    Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn bị người khác có hành vi xâm phạm như: vu khống, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm bịa đặt chuyện người khác... được xem là vu khống.

    Theo quy định tại Ðiều 584 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định:

    "1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này."

    Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm được quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2005 như sau:

    "1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

    c) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định".

    Để yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm thì phải đáp ứng những điều kiện sau :

    Căn cứ Điều 588 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

    Thứ hai là việc nộp hồ sơ khởi kiện phải đúng thẩm quyền của Tòa án thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án cấp Quận, Huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết

    Thứ ba là hồ sơ khởi kiện phải đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

    Hồ sơ khởi kiện bao gồm :

    - Đơn khởi kiện : theo đúng mẫu ban hành kèm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

    - Giấy tờ chứng minh hành vi danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm và những tình tiết, sự kiện phải chứng minh

    - Giấy xác nhận của cơ quan nhà nước về địa chỉ cư trú, làm việc của bị đơn;

    - Chứng minh nhân dân và Hộ khẩu của người khởi kiện;

    - Giấy tờ chứng minh vụ việc vẫn còn thời hiệu khởi kiện (nếu có).

    - Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, của các đương sự và người có liên quan khác

    - Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn kiện (ghi rõ số bản chính, bản sao).

    Tuy nhiên, trong trường hợp này, nếu bạn có chứng cứ chứng minh người đó đã xâm phạm danh dự, nhân phẩm của bạn thì bạn có thể viết đơn tố cáo với cơ quan công an. Người đó có thể bị phạt hành chính từ 100.000 đến 300.000VNĐ theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP nếu hành vi đó không cấu thành nên tội phạm. Nếu có đủ căn cứ để cho rằng có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra sẽ thụ lý để giải quyết vụ án.

    Điều 122 Bộ luật Hình sự quy định, người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm (khoản 1).

    Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 1 đến 10 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm (khoản 3).

    Người có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ có trách nhiệm bồi thường theo quy định trên. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    30/05/2017, 11:20:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Do xe của bạn là phương tiện có liên quan đến vụ tai nạn giao thông và xảy ra xô xát nên việc cơ quan công an tạm giữ xe để khám nghiệm, điều tra là phù hợp với quy định của pháp luật.

    Cụ thể theo Điểm a Khoản 1 Điều 10 Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/01/2007 của Bộ Công an ban hành quy trình điều tra giải quyết tại nạn giao thông đường bộ thì khi vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra, các phương tiện giao thông có liên quan đều phải được tạm giữ để phục vụ công tác khám nghiệm, điều tra giải quyết. Trường hợp vụ tai nạn giao thông đường bộ có dấu hiệu tội phạm thì đơn vị Cảnh sát giao thông tạm giữ phương tiện có trách nhiệm bàn giao phương tiện bị tạm giữ cùng với hồ sơ vụ án cho đơn vị điều tra tội phạm về trật tự xã hội có thẩm quyền.

    Như vậy, thời gian giữ xe phụ thuộc vào quá trình điều tra, xác minh, khám nghiệm của cơ quan công an.

  • Xem thêm     

    30/05/2017, 11:15:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Nếu đúng như bạn không biết về nguồn gốc của những loại giấy tờ mà cơ quan công an có hỏi tới thì bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối. Nếu có dấu hiệu lời khai không đúng sự thật, cơ quan điều tra sẽ phải chứng minh lỗi cố ý của bạn, đồng thời căn cứ vào nguyên nhân, động cơ, mục đích để đề ra hình thức xử lý.

    Theo Điều 307 Bộ luật Hình sự quy định về tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật thì người làm chứng nào mà khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

     Phạm tội thuộc một trong các trường hợp có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Trên thực tế thì việc chứng minh lỗi, động cơ đối với lời khai sẽ rất khó khăn và việc xử lý hình sự đối với hành vi khai báo sai sự thật thường rất ít.

  • Xem thêm     

    23/04/2017, 05:28:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tại Điều 584 Bộ luật dân sự  2015 quy định Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
    “ 1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác..”
    Ngoài ra, tại Điều 605 BLDS 2005 quy định Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
    “ 1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
    3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
    4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
    5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”
    Về mức bồi thường thiệt do tính mạng bị xâm phạm thì tại Điều 591Bộ luật dân sự quy định:
    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
    d) Thiệt hại khác do luật quy định.
    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định."
    Như vậy, bạn phải bồi thường thiệt hại theo quy định trên hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định mức bồi thường hợp lý trong từng trường hợp cụ thể. Do đó, tôi không thể nói một mức bồi thường cụ thể theo yêu cầu của bạn. Còn trong trường hợp mức phạt sẽ do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    17/04/2017, 09:57:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo như nội dung bạn trình bày, đối với hành vi nhận tiền để hứa sẽchuyển công tác về gần nhà là hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác nếu người nhận tiền đã sử dụng số tiền đó và không hoàn trả được cho vợ bạn thì có thể người nhận tiền đó có dấu hiệu của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 
    Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) có quy định cụ thể về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
    “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Có tính chất chuyên nghiệp;
    c) Tái phạm nguy hiểm;
    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân:
    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
    Hiện tại bạn mong muốn tố cáo để người đó chịu trách nhiệm hình sự thì phải có đủ căn cứ chứng minh số tiền đó họ yêu cầu mình đưa cho họ thì bên công an hoàn toàn có cơ sở để xác định hành vi của mẹ bạn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
    Như vậy, trường hợp đưa tiền chạy việc là hành vi mà pháp luật không cho phép thực hiện. Trong trường hợp này bạn giải quyết như sau:
    Thứ nhất: Phải có biên nhận tiền, và các chứng cứ khác để có căn cứ để làm đơn tố cáo lên cơ quan công an về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
    Thứ hai: Nơi gửi đơn tố cáo là Công an cấp quận (huyện)
    Thứ ba: Hiện tại không có chế tài cụ thể để xử phạt hành vi đưa tiền chạy việc
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    14/04/2017, 04:56:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Hiện nay mọi hình thức liên lạc với người bạn kia đều không được; như vậy đã có dấu hiệu bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ và chiếm đoạt số tiền đã vay. Vì vậy với số tiền bạn đã cho vay và những hành vi của người bạn đó, bạn có thể khởi kiện tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 1 điều 140 Bộ luật hình sự 1999.
    Điều 140 BLHS quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
    “1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
    đ) Tái phạm nguy hiểm;
    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.”
     Theo đó, trước tiên bạn cần làm Đơn tố giác tội phạm đến cơ quan công an nơi bạn cư trú. Sau khi xem xét và xác định cơ quan có thẩm quyền, cơ quan công an sẽ làm thủ tục chuyển quyền điều tra vụ án cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nội dung đơn tố cáo bao gồm : họ tên, địa chỉ của người tố cáo; họ tên, chức vụ, hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; những yêu cầu liên quan của người tố cáo. Dựa theo đơn tố cáo của bạn, vụ việc sẽ được xem xét có đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hay không theo quy định tại điều 103 BLHS
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    08/04/2017, 05:00:46 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn đã được Toà án xét xử và bản án đã có hiệu lực 11 năm nay, vấn đề ở đây là thi hành bản án về bồi thường thiệt hại.
    Pháp luật hiện nay không quy định cụ thể thời gian bao nhiêu lâu phải thi hành xong một việc thi hành án, bởi lẽ tùy từng trường hợp cụ thể mà hiệu quả thi hành một việc thi hành án nhanh hoặc chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ, người phải thi hành tự nguyện nộp tiền, tài sản để thi hành án hoặc người được thi hành án và người phải thi hành án thỏa thuận được với nhau về việc thi hành án hoặc tài sản của người phải thi hành án bị kê biên, bán đấu giá mà có người mua ngay v.v thì việc thi hành án sớm thực hiện xong thì việc thi hành án khó thực hiện xong một cách nhanh chóng.
    Vì vậy, trường hợp bạn hỏi, gia đình bạn cần liên hệ trực tiếp với cơ quan thi hành án đang tổ chức việc thi hành án đề nghị cho biết tình trạng giải quyết việc thi hành án và cũng đề nghị cơ quan thi hành án tích cực tổ chức việc thi hành án đúng thời hạn của các công việc cụ thể để bảo đảm lợi ích hợp pháp của gia đình bạn theo quy định của pháp luật.
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    03/04/2017, 10:32:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Bạn cho một người bạn mượn xe nhưng không liên lạc được nhưng cũng chưa đủ cơ sở để khẳng định người bạn đó có hành vi chiếm đoạt tài sản hay không. Trường hợp này căn cứ vào Bộ luật dân sự 2015 thì đây là hợp đồng mượn tài sản (giao kết bằng lời nói) và người bạn của bạn có những trách nhiệm sau đây:
    “Điều 496. Nghĩa vụ của bên mượn tài sản
    1. Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.
    2. Không được cho người khác mượn lại, nếu không có sự đồng ý của bên cho mượn.
    3. Trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được.
    4. Bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản mượn.
    5. Bên mượn tài sản phải chịu rủi ro đối với tài sản mượn trong thời gian chậm trả”
    Do vậy xem xét vào thời gian và tình hình thực tế, nếu gia đình bạn đã tìm mọi cách liên lạc với người bạn để đòi lại xe, người bạn đó biết nhưng cố ý không trả thì bạn có thể kiện ra Tòa dân sự cấp huyện nơi bạn sinh sống để Tòa giải quyết hoặc báo cơ quan công an tại địa phương nơi bạn sinh sống khi có cơ sở xác định chú bạn có hành vi phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điều 139 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009:
    “Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 
    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Có tính chất chuyên nghiệp;
    c) Tái phạm nguy hiểm;
    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.”
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    31/03/2017, 09:14:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Để xác định định tai nạn giao thông là vụ án hành chính hay vụ án hình sự trong trường hợp của bạn thì cơ quan có thẩm quyền phải làm rõ các tình tiết của vụ tai nạn thông.

    Trường hợp sau khi xác định được lỗi, nếu hành vi của người lái xe có dấu hiệu tội phạm, cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố thì có thể kết luận điều tra và giải quyết vụ tai nạn theo một trong hai hướng sau:

    +) Quyết định khởi tố vụ án nếu có dấu hiệu tội phạm. Trường hợp này, vụ tai nạn giao thông sẽ được giải quyết tiếp theo thủ tục tố tụng hình sự

    +) Quyết định không khởi tố vụ án nếu vụ án không có dấu hiệu tội phạm. Trường hợp này vụ tai nạn giao thông sẽ được giải quyết tiếp theo thủ tục hành chính.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    29/03/2017, 09:54:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì để được bảo lãnh cho em trai  của bạn thì cần ít nhất 2 người là những người thân thích của ba bạn, có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Những người này phải làm giấy cam đoan không để em của bạn tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của em trai bạn theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, việc bảo lĩnh này phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người nhận bảo lãnh cư trú.

    Tuy nhiên, việc người đó được tại ngoại không đồng nghĩa với việc người đó không phạm tội. Mặc dù, người đó được tại ngoại nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiến hành các hoạt động điều tra, xét xử như bình thường.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/03/2017, 12:55:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009)về tội đánh bạc: “Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm: có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn; tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.
    Mặt khác theo quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì: Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng là có giá trị lớn; Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng là có giá trị rất lớn; Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên là có giá trị đặc biệt lớn.
    Căn cứ vào những quy định trên thì số thu giữ trên chiếu bạc có giá trị từ một triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng là số tiền có giá trị lớn. Do đó người thân bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự với mức hình phạt là phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm….
    Ngoài các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hihf sự thì các tình tiết giảm nhẹ khác ở khoản 2 Điều 46 được hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP như sau:
    “- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
    - Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;”
    Theo những quy định nêu trên và  những gì bạn trình bày, thì người than bạn có thể được xem xét các tình tiết giảm nhẹ với như  sau: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có người thân là người có công với cách mạng; gia đình thương liệt sỹ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án
    Việc người thân bạn bị người trong tòa án ép đưa 15-16tr để bỏ án là hành vi trái và vi phạm pháp luật nên cần phải tố giác với cơ quan có thẩm quyền
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    27/03/2017, 09:52:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Người thi hành công vụ là cán bộ, công chức, nhân viên của các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức đang thi hành nhiệm vụ được cơ quan, tổ chức đó giao cho hoặc theo quy định của pháp luật vì lợi ích chung. Hành vi chống lại người thi hành công vụ trực tiếp xâm hại đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính những người thi hành công vụ.

    Như vậy, người cán bộ, công chức đang làm nhiệm vụ trong phòng làm việc tại trụ sở UBND cấp xã là người thi hành công vụ như đã nêu trên. Hành vi mà công dân cố ý đánh người cán bộ, công chức đó trong phòng làm việc thì có thể đã cấu thành Tội chống người thi hành công vụ được quy định Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999.

  • Xem thêm     

    24/03/2017, 11:21:26 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Nếu hành vi gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác chỉ dừng ở mức độ xử lý hành chính, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì theo Điểm e Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì người "Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác" có thể bị phạt từ  2.000.000 đến 3.000.000 đồng
    Nếu tính chất hành vi và mức độ thiệt hại đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì hành vi cố ý gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích tại Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 
    Để xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý của người gây thương tích, anh bạn cần trình báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan điều tra công an cấp xã để giải quyết nhưng cơ quan công an xã không giải quyết thì bạn có thể khiếu nại lên cơ quan cấp trên hoặc làm đơn tố giác tội phạm lên Cơ quan điều tra cấp huyện. Nội dung của đơn trình báo, tố giác bao gồm các nội dung cơ bản như: Họ và tên người trình báo, ngày tháng năm sinh, số Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu thường trú, nội dung chi tiết vụ việc. Ngoài ra có thể gửi kèm theo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó cơ quan công an có cơ sở để áp dụng các thủ tục pháp lý cần thiết như điều tra để xác minh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật; trưng cầu giám định tư pháp để xác định mức độ thiệt hại đối với cơ thể do hành vi gây thương tích gây ra. Kết luận giám định là căn cứ quan trọng để đánh giá hành vi cố ý gây thương tích có đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự hay không; đông thời cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    24/03/2017, 11:10:29 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Tội chống người thi hành công vụ được quy định như sau:
    “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm :
    a) Có tổ chức;
    b) Phạm tội nhiều lần;
    c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
    đ) Tái phạm nguy hiểm.”
    Hành vi chống người thi hành công vụ trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó. Tội phạm này được quy định nhằm đấu tranh phòng và chống các hành vi chống người thi hành công vụ, giữ gìn trật tự công cộng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người đang thi hành công vụ.
    Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, thông qua việc xâm phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công. Người đang thi hành công vụ nói tại Điều luật này rất đa dạng, có thể là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao một nhiệm vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, cá biệt cũng có trường hợp là công dân bình thường, họ được điều động thực hiện một công vụ cấp bách nào đó vì lợi ích chung cũng được xem là người thi hành công vụ.
    Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật và bị xâm hại thì hành vi của người có hành vi bị xâm hại không phải là hành vi chống người thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thức nhiệm vụ thì không thuộc trường hợp thi hành công vụ. Do vậy, tội phạm này chỉ bảo vệ những người thực hiện nhiệm vụ công, còn trường hợp công chức thực hiện công việc vì lợi ích hoặc động cơ cá nhân thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội phạm này.
    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    24/03/2017, 10:54:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Về mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản : Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối ở đây là đưa ra những thông tin không đúng sự thật để đánh lừa người khác. Hành vi này có thể thông qua lời nói; xuất trình giấy tờ giả mạo; giả danh cán bộ; giả danh tổ chức ký kết hợp đồng… và người bị lừa dối không thể nhận biết được những thông tin này là  gian dối.

    Như vậy, trong trường hợp của bạn, mẹ của bạn hoàn toàn có thể nhận thức được hành vi của mình mà hành vi của người này không thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối như sau: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”

    Trong trường hợp này, bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện người đó ra tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang sinh sống yêu cầu tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi khởi kiện tại tòa, bạn cần cung cấp chứng cứ chứng minh về việc giao dịch giữa hai bên. Tòa sẽ xác minh quan hệ giao dịch đó có đúng hay không. Nếu đúng như những gì bạn trình bày, tòa sẽ tuyên bố giao dịch vô hiệu và yêu cầu bên cầm cố trả lại tài sản cho bạn.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi, nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

15 Trang «<1112131415>