Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

15 Trang «<101112131415>
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:05:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin sự việc bạn trình bày, chúng tôi không thể định tội hay xác định lỗi do anh bạn hay từ phía người điều khiển xe mô tô qua thông tin bạn cung cấp được. Do thẩm quyền điều tra, xác định lỗi là do bên cảnh sát giao thông xác định trên thực tế.
    Đối với trường hợp, cơ quan công an xác định lỗi do anh trai bạn gây tai nạn chết người thì có hai trách nhiệm được đặt ra đối với anh bạn đó là trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
    _ Đối với trách nhiệm hình sự :
    Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 202 đã ghi nhận về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:
    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
    …”.
    Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Do đó, nếu như công an xác định anh trai bạn có lỗi khi tham gia giao thông thì anh bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. 
    _ Đối với trách nhiệm dân sự:
    Theo Điều 591, Bộ luật dân sự 2015 khi đề cập đến thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm đã quy định như sau:
    “1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
    d) Thiệt hại khác do luật quy định.
    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
    Do đó, khi công an xác định lỗi do anh trai bạn thì anh trai bạn vừa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và vừa chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình người điều khiển chiếc xe mô tô đó.
    - Trường hợp xác định anh trai bạn không có lỗi thì anh trai bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, anh trai bạn vẫn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người điều khiển xe mô tô, căn cứ tại khoản 3 điều 601 về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
    “3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
    Chiếc xe ô tô tải loại 10 tấn mà anh trai bạn điều khiển thuộc nguồn nguy hiểm cao độ, do đó anh trai bạn vẫn phải chịu bồi thường thiệt hại.
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:00:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo căn cứ tại Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
    “1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”
    Như vậy, khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không cần hội tụ đủ các yếu tố:
    - Thứ nhất, về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Trong tình huống của bạn, giữa anh bạn và người kia xảy ra xô xát từ trước, sau khi hai bên dừng lại về nhà thì người kia đã về nhà lấy một cây rựa phát bờchạy theo đòi chém anh bạn, vẫn có ý định tấn công tiếp, đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của bạn và em trai bạn. 
    - Thứ hai, về phía người phòng vệ: Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm. Người kia gây tổn hại về sức khỏe cho không chỉ bạn mà cả em trai bạn. Và sau đó bạn cũng đã gây tổn hại về sức khỏe lại cho người đó, gây thương tích nặng.
    - Thứ ba, hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù mức thương tích bạn gây ra cho người kia lớn hơn mức thương tích bạn phải chịu nhưng điều này là cần thiết để bảo vệ sức khỏe đang bị đe dọa của mình.
    Như vậy, bước đầu có thể thấy rằng bạn đang trong tình thế cần và có quyền phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, Điều 106 Bộ luật quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
    2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.”
    Mức thương tật để phân biệt giữa hành vi phòng vệ chính đáng và vượt quá phòng vệ chính đáng ở đây là 31%. Do vậy cần phải giám định mức độ thương tích trước khi có thể đưa ra được kết luận rằng bạn có vượt quá mức độ phòng vệ chính đáng không. 
     
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 09:58:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã quan hệ với một chị 22 tuổi nhiều lần khi chưa đủ 16 tuổi. Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 115 Bộ luật hình sự về Tội giao cấu với trẻ em:
    “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
    a) Phạm tội nhiều lần;
    …”
    - Về chủ thể của tội pham:
    Đối với tội giao cấu với trẻ em, pháp luật hiện hành quy định đây là tội có chủ thể đặc biệt. Tức là chỉ người đã thành niên mới là chủ thể của tội này hay chỉ người tù đủ 18 tuổi trở lên mới trở thành chủ thể của tội này. Với trường hợp của bạn, chị đó đã 22 tuổi đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.Chủ thể của tội phạm không phụ thuộc vào giới tính,có thể là nam hoặc nữ.
    - Về khách thể của tội phạm:
    Khách thể của nhóm tội phạm này là xâm phạm đến quan hệ nhân thân (quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển toàn diện của trẻ em).
    Mặt khách quan của tội giao cấu với trẻ em:
    Người phạm tội có hành vi giao cấu thuận tình với người trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi đây là hành vi giao cấu được thực hiện với sự đồng tình của trẻ em. Qua quy định điều luật nay, nhà làm luật muốn ngăn chăn hành vi của người lớn lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của trẻ em để đẩy các em vào những quan hệ tình dục quá sớm gây ảnh hưởng xấu về mọi mặt cho các em.
    Mặt chủ quan của tội phạm:  
    Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý: người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em một cách cố ý và tuy đã biết rõ người mà mình giao cấu là trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi mà vấn giao cấu.
    Bạn có thể tố giác về hành vicủa chị đó, bạn có thể làm đơn tố giác tội phạm đến cơ quan công an cấp quận, huyện để yêu cầu xử lý. Để hỗ trợ cho cơ quan điều tra trong việc điều tra vụ án, bạn cần nói ra sự thật, thống nhất lời khai với cơ quan điều tra. Khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án sẽ đưa ra quyết định trưng cầu giám định. Việc giám định pháp y phải được thông qua cơ quan giám định pháp y được nhà nước công nhận, thường thì phải thông qua cơ quan giám định do Cơ quan điều tra chỉ định.
  • Xem thêm     

    13/12/2017, 04:40:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin chúng tôi nhận được và căn cứ tại Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tôi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì:
    “1. Người nào có một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
    Như vậy, có thể thấy rằng hành vi của người bạn của bạn có thể có dấu hiệu cấu thành tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, một số thông tin bạn cung cấp vẫn chưa được làm rõ, nên để xác định dấu hiệu phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” sẽ phải căn cứ vào rất nhiều tình tiết khách quan, hành vi phạm tội. Do đó, không phải trường hợp nào cũng có thể xác định để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được.
    Trong trường hợp này bạn vẫn có thể nộp đơn tố cáo đến cơ quan Cảnh sát điều tra để tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người bạn này. Cụ thể thông tin bạn cung cấp thì bạn có thể nộp đơn tố cáo đến cơ quan CSĐT Công an huyện nơi có tài sản bị chiếm đoạt để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
     
  • Xem thêm     

    13/12/2017, 04:29:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Họ, hụi, biêu, phường là một hình thức tổ chức góp vốn đã được nhà nước công nhận và có những quy định chung trong nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006. Bên cạnh đó, căn cứ tại khoản 2 điều 2 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP quy định về 
    “Trong đó có nghiêm cấm việc tổ chức họ để cho vay nặng lãi, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật khác để chiếm đoạt tài sản của người khác.”
    Như vậy, nếu bạn không thực hiện những hành vi này thì bạn không vi phạm pháp luật.
    Về nghĩa vụ trong trường hợp vỡ họ, có thể hiểu là vợ bạn (chủ họ) không còn khả năng để tiếp tục giao phần họ cho các thành viên được lĩnh họ thì theo nghị định tại điều 29 quy định về Trách nhiệm của chủ họ do không giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ:
    “Trong trường hợp chủ họ đã thu các phần họ của các thành viên nhưng không giao cho thành viên được lĩnh họ thì theo yêu cầu của thành viên có quyền lĩnh họ, chủ họ phải giao các phần họ đã thu được cho thành viên đó và bồi thường thiệt hại nếu có. 
    Chủ họ phải trả lãi đối với các phần họ giao chậm theo mức lãi do các bên thoả thuận, nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian giao chậm tại thời điểm giao các phần họ.”
    Như vậy trường hợp này bạn vẫn phải chịu trách nhiệm với phần lãi xuất do chậm trả và có những quy định cụ thể về lãi xuất như sau: Theo căn cứ tại Điều 10 nghị định này quy định:
     “Trong trường hợp họ có lãi thì lãi suất đối với phần họ được thực hiện theo quy định tại Điều 476 của Bộ Luật Dân sự.” 
    Tuy nhiên, vào 01/01/2017  bộ luật dân sự 2015 đã có hiệu lực, tuy nhiên hiện nay chưa có nghị định thay thế, hướng dẫn Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. Nên bạn có thể vẫn áp dụng được mức lãi suất theo Bộ Luật Dân sự 2015.
     
  • Xem thêm     

    13/11/2017, 09:54:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, để xác minh giám định dấu vân tay thì có thể tiến hành giám định tại các  Văn phòng giám định tư pháp, Trung tâm giám định tư pháp. 
    Dấu vân tay phải nhận thấy bằng mắt thường, dấu vân tay chia làm hai loại là vân nhìn thấy (hay vân nổi) và không nhìn thấy (hay vân chìm). Vân nổi có thể dễ dàng tìm thấy được vì chúng nổi lên trên các bề mặt khi máu, bụi đất, mực, sơn, dầu... mà người có dấu vân tay để lại trên bề mặt. Còn vân chìm rất khó nhận thấy bằng mắt thường, chúng được hình thành khi dầu và mồ hôi của người để lại bám lên một bề mặt khác. Trường hợp của hỏi là rất khó để xác định.
     
  • Xem thêm     

    10/11/2017, 01:19:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn thì phía công ty kia đã vi phạm nghĩa vụ của mình. Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự với bạn theo quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm này chưa gây thiệt hại, thì người vi phạm chỉ có trach nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ. Mặt khác, nếu vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại cho người bị vi phạm, thì người vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của sự vi phạm mà trách nhiệm do vi phạm hợp đồng sẽ là trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ( nếu đã gây thiệt hại), và có thể là trách nhiệm phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận.
    Để có thể xử lý có hiệu quả các vi phạm hợp đồng khi xảy ra, có thể thực hiện việc thương lượng -  hòa giải, nếu đạt được kết quả sẽ có nhiều lợi ích cho các bên và rút ngắn thời gian thực hiện hợp đồng…. và làm hài lòng các bên tranh chấp.
    Nếu các bên không tự giải quyết được thì nên yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài kinh tế (chỉ áp dụng trong trường hợp tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại) giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho mình trong thời hạn nhất định.
    Nếu thấy có dấu hiệu hình sự thì bạn có quyền đề nghị cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát xem xét khởi tố vụ án hình sự vụ việc này.
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    01/11/2017, 09:29:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Pháp luật dân sự hiện hành không có quy định bắt buộc hợp đồng vay phải được lập thành văn bản. Do đó, việc bạn cho vay tiền nhưng không lập thành văn bản mà chỉ giao kết bằng lời nói thì hợp đồng này vẫn có giá trị pháp lý, 2 bên vẫn có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận.

     

    Trường hợp người bạn kia không trả đủ số tiền đã vay tức là đã vi phạm nghĩa vụ của mình, bạn có thể khởi kiện đến tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang cư trú để yêu cầu người này thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Khi nộp đơn khởi kiện bạn có thể kèm theo giấy chuyển tiền qua ngân hàng để làm căn cứ chứng minh, việc có chứng minh được tồn tại hơp đồng vay tài sản hay không còn phụ thuộc vào lời khai của các bên, lời khai của người làm chứng, bạn cũng có thể thu thập thêm một số chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.

  • Xem thêm     

    29/10/2017, 10:21:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, tôi tư vấn như sau:
    Điều 105, Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có quy định:
    "1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."
    Có thể thấy, trường hợp của bạn rơi vào khoản 1 Điều 104 Tội cố ý gây thương tích(nếu thuong tích từ 11% đến 30%) . Vì vậy, theo Khoản 1, Điều 105, Bộ luật tố tụng hình sự 2003, nếu ngươi bị hại không có yêu cầu thì vụ án của bạn sẽ không bị khởi tố. Khi đó, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Vì vậy, nếu như hai bên có thể thỏa thuận được thì đó sẽ là phương án có lợi cho bạn nhất.
    Trong trường hợp phía bên người bị hại đã nộp yêu cầu khởi tố thì trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, bạn vẫn có thể thỏa thuận để người bị hại vẫn có thể rút yêu cầu. Khi đó, vụ án sẽ được đình chỉ. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức
     
  • Xem thêm     

    29/10/2017, 10:14:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo quy định của bộ luật hình sự, bác của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:
    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
     
    Khi bác bạn đánh bố bạn, trói rồi gây thương tích nặng. Do đó hành vi của bác bạn đã cấu thành tội gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khi bố bạn tố cáo bác bạn với cơ quan công an sẽ cho bố bạn đi xác định tỷ lệ thương tật. Như vậy, việc xác định tỷ lệ thương tật làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự.
    Trường hợp tỉ lệ thương tật của ông B từ 11% trở lên thì đã đủ yếu tố cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Trường hợp tỉ lệ thương tật của ông B chưa đến 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 trên thì cũng đủ yếu tố để cấu thành tội phạm.
     
  • Xem thêm     

    25/10/2017, 10:13:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo quy định, từ chối luật sư là quyền của bị can, bị cáo nhưng tòa phải hỏi rõ nguyên nhân, đồng thời giải thích kỹ cho bị cáo trước khi ra quyết định. Nếu thấy sự từ chối này là hợp lý thì tòa yêu cầu bạn viết đơn và hướng chấp nhận yêu cầu. Việc chấp nhận yêu cầu này không ảnh hưởng đến vấn đề tố tụng của vụ án vì tại tiểu mục d.2 điểm d Mục 3 Phần II Nghị quyết số 03-2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hướng dẫn: “Tại tòa nếu bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa thì phải ghi vào biên bản phiên tòa”...

  • Xem thêm     

    11/10/2017, 10:11:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, người bạn trai bị gia đình bé gái dàn cảnh để hai người vào nhà nghỉ và sau đó khi đang có các cử chỉ âu yếm thì bị công an ập tới bắt người con trai. Trong đó, người con trai đã 20 tuổi, người con gái 16 tuổi.

     

    Như vậy, về dấu hiệu cấu thành tội Dâm ô được quy định tại điều 116, Bộ Luật hình sự năm 1999 :

    Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều trẻ em;

    c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

    Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụcấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

    Theo căn cứ trên, tội dâm ô là hành vi của người đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất loạn dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Như vậy, người con trai kia không bắt buộc phải quan hệ, mới cấu thành tội dâm ô mà chỉ cần có những hành vi đụng chạm đến phần nhạy cảm của bạn gái cũng đã cấu thành tội Dâm ô, mà nơi thực hiện lại ở nhà nghỉ nên người bạn trai đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

    Về việc xác định có việc dàn cảnh trong trường hợp này, người bạn trai cần phải có căn cứ (nhân chứng, vật chứng …) chứng minh được có sự sắp xếp từ phía gia đình nhà bạn gái đó. Vì người bạn trai đó đã bị bắt quả tang tại nhà nghỉ với bạn gái đó nên việc chứng minh là rất khó. Nếu có căn cứ chứng minh và còn thời hạn bạn có quyền kháng cáo bản án đó để được tiến hành xét xử phúc thẩm. Nếu hết thời hạn được xét xử phúc thẩm, bạn sẽ đề nghị kháng nghị hay kháng cáo để được tiến hành thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

  • Xem thêm     

    27/09/2017, 04:04:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, sau vụ tai nạn giao thông vợ bạn và đứa con trong bụng đều mất, người mợ thì hiện vẫn đang chữa trị tại nhà. Bên gây tại nạn sau hai lần đến thăm đến nay không có đi lại hay gọi điện, bồi thường gì cho gia đình bạn. Đầu tiên cần xác định lỗi trong trường hợp này, để từ đo căn cứ yêu cầu bên có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cũng như chịu trách nhiệm hình sự ( nếu đủ căn cứ cấu thành). Việc xác định lỗi sẽ do cơ quan điều tra xác định có lỗi hay không và tùy thuộc vào các tính tiết khách quan khác nhau chứ không thể theo thông tin bạn cung cấp như trên mà xác định được.

     

    Vậy nên với trường hợp của bạn chúng tôi sẽ tư vấn theo hướng đặt ra các giả thiết như sau:

    Nếu cơ quan điều tra xác định lỗi do chiếc ô tô đó gây ra, thì người điều khiển ô tô sẽ phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.

    - Về vấn đề chịu tráchh nhiệm hình sự :

    Theo quy định về gây tai nạn giao thông có lỗi khi tham gia giao thông đường bộ ( ví dụ như không tuân thủ các nguyên tắc an toàn giao thông ) gây ra hậu quả nghiêm trọng như gây thiệt hại lớn về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người bị hại thì có thể chủ thể gây tai nạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau :

    " 1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    ………………..

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    …”

    Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC về một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt quy định :3. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 204; khoản 3 các điều 202, 203, 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220, Điều 222, Điều 223; khoản 4 các điều 206, 207, 216, 218, 219 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

    b) Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;”

    Việc gây ra hậu quả chết hai người và một người bị thương hiện vẫn đang điều trị (nếu có giám định thương tích đủ điều kiện) thì lỗi của ô tô sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ vào quy định trên, nếu người điều khiển ô tô có đầy đủ căn cứ cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh trên, với mức độ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, người điều khiển xe ô tô sẽ phải chịu mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    - Căn cứ để bồi thường thiệt hại:

    Theo quy định tại khoản 1 điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”.

    Căn cứ vào quy định trên, bên vi phạm sẽ phải bồi thường cho gia đình bạn các khoản tiền cứu chữa, tiền mai táng, tiền chữa trị cho người đang điều trị, …

    - Trong trường hợp người điều khiển ô tô không có lỗi:

    Nếu cơ quan điều tra kết luận người điều khiểm ô tô không có lỗi, thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 202 Bộ Luật Hình sự 1999.

    Tuy nhiên, người điều khiển ô tô vẫn phải bồi thường theo quy định tại khoản 3 điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

    Như vậy, dù không có lỗi nhưng người điều khiển ô tô vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.

    Trường hợp, gia đình người đó không chịu bồi thường thiệt hại, bạn có quyền nộp đơn khởi kiện đến tòa án quận, huyện nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    27/09/2017, 04:01:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, anh Công trong lúc đang phê đá thì nghe được những lời nói không hay từ phía vợ mình là chị Nhung, nên đã có hành vi cầm dao đe dọa đâm dì của bạn (mẹ của anh Công). Hành vi của anh Công tuy đã được ngăn chặn kịp thời chưa gây thương tích hay thiệt hại xảy ra nhưng đã vi phạm nghiêm trọng đến đạo Hiếu, bổn phận của người làm con đối với mẹ.

     

    Hành vi của anh Công chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm Hình sự. Nhưng hành vi đó sẽ đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của gia đình dì bạn do anh Công là người nghiện sử dụng ma túy đá nên sẽ dễ không kiểm soát hành vi mà phạm tội. Vậy nên, dì bạn có thể đơn tố cáo hay tố giác hành vi vi phạm đến cơ quan công an để ngăn chặn hoặc xử lý hành vi của anh Công. Nếu gia đình nhà dì bạn chưa đăng ký cai nghiện thì sẽ đến UBND phường, xã khai báo tình trạng nghiện (nghiện chất gì, bao lâu...) và làm đơn đăng ký cai nghiện tại gia đình và cộng đồng. Gia đình có điều kiện kinh tế có thể đưa anh Công đi cai nghiện tại một số trung tâm tư nhân hoặc Nhà nước (trả chi phí). Để ngăn chặn hành vi nguy hiểm có thể xảy ra trong gia đình dì bạn.

    Với hành vi chị Nhung đưa dao cho chồng là anh Công thực hiện tiếp hành vi vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như người bị xúi dục phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, anh Công chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nên theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP như sau:

    " Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    …."

    Căn cứ vào quy định trên, chị Nhung sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xúi giục người khác thực hiện hành vi vi phạm.

    Đây là chuyện trong gia đình nhà dì bạn thì chúng tôi khuyên gia đình bạn nên đưa anh Công đi cai nghiện và cần nói chuyện rõ ràng giữa những người trong gia đình dì bạn để giải quyết những vấn đề hiểu lầm phát sinh trong quá trình chung sống.

  • Xem thêm     

    21/09/2017, 11:55:47 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn lùi xe từ sân nhà ra đường, chuẩn bị chạy thì bị một chiếc xe moto phóng với tốc độ nhanh đâm vào bên hông trái xe bạn và tử vong hai ngày sau. Trong trường hợp này, cần xác định lỗi của bạn và người kia khi tham gia giao thông.

     

     

    Bạn tham gia giao thông không sử dụng rượu bia hay chất kích thích, đủ điều kiện điều khiển xe, đoạn đường này không cấm lùi, dừng đỗ hay quay đầu. Còn người kia khi điều khiển xe, đã phóng với tốc độ nhanh và có nồng độ cồn 80 miligam/100 mililit máu. Theo căn cứ tại khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ 2008 quy định về các hành vi bị cấm:

    8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.

    Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.”

    Như vậy, xác định lỗi trong trường hợp này là do người kia có nồng độ cồn khi tham gia giao thông vượt quá mức cho phép, không làm chủ được tốc độ nên đã tự mình đâm vào xe bạn và dẫn đến tử vong hai ngày sau đó.

    Quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ, Điều 202 Bộ luật hình sự quy định:

    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    …”

    Căn cứ vào quy định trên, nếu bạn không vi phạm bất cứ lỗi gì theo quy định của Luật giao thông đường bộ, thì bạn sẽ không bị cơ quan công an khởi tố truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng việc cơ quan điều tra việc xác định bạn có lỗi hay không còn tùy thuộc vào các tính tiết khách quan khác nhau chứ không thể theo thông tin bạn cung cấp như trên. Mặc dù có thiệt hại về tính mạng và tài sản xảy ra nhưng không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại điều 584 BLDS năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

    “2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    Như vậy, nếu bạn có lỗi thì phải bồi thường, còn bạn không có lỗi và lỗi hoàn toàn do bên kia thì bạn không phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên để giải quyết câu chuyện này một cách thấu tình đạt lý thì bạn đã giúp đỡ gia đình người bị thiệt hại số tiền là 100 triệu đồng là một trong những tình tiết giảm nhẹ (nếu có lỗi) và mang tính nhân đạo (nếu bạn không có lỗi).

  • Xem thêm     

    20/09/2017, 11:50:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, hai đồng chí phó thôn và phó bí thư chi đoàn đang bị cơ quan điều tra bắt giữ. Trường hợp công an bắt giữ người là có căn cứ và để phục vụ để điều tra. Nên nếu như bạn muốn bảo lãnh trong trường hợp này, thì cần căn cứ theo quy định tại Điều 92, Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 về Bảo lĩnh:

     

     

    1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

    2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

    3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.

    4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

    5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.”

    Căn cứ quy định trên thì tùy vào giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh.

    Đối với trường hợp xin được bảo lĩnh trong giai đoạn điều tra thì, việc có được bảo lĩnh hay không còn tùy thuộc vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể trong giai đoạn này là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát. Thủ trưởng Cơ quan điều tra căn cứ vào tính chất và mức độ phạm tội để ra quyết định về việc có hay không được bảo lĩnh.

    Bạn cần phải có ít nhất hai người (đáp ứng các điều kiện trên) làm đơn xin bảo lĩnh cho họ tại ngoại, đơn này phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, sau đó gửi đến Cơ quan điều tra để được xem xét giải quyết. Trong trường hợp bạn có gì thắc mắc hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    11/09/2017, 02:59:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:
    I. Về vấn đề thi hành án.
    Theo như thông tin bạn cung cấp với chúng tôi, bạn đang nghi ngờ tính minh bạch trong quá trình giải quyết của cơ quan thi hành án.
    Nếu bạn có đủ căn cứ chứng minh được nhân viên cơ quan thi hành án đã không làm đúng hoặc không làm đủ thủ tục xác minh, kiểm tra thông tin mà vội vàng ra quyết định thi hành án thì cơ quan thi hành án đã vi phạm pháp luật về mặt thủ tục và đã ra một quyết định thi hành án không có cơ sở. Đây là căn cứ để bạn khiếu nại hoặc khiếu kiện về quyết định này. Căn cứ điều 140 Luật Thi hành án dân sự về Quyền khiếu nại về thi hành án
    “1. Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
    2. Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên như sau:
    a) Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
    b) Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định;
    Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
    c) Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
    d) Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
    Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.
    Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.”
    Như vậy, bạn xem xét về thời hạn cụ thể trên thực tế để xác định thời hiệu khiếu nại đối với quyết định của cơ quan thi hành án đó trên thực tế. Nếu vẫn còn thời hiệu khiếu nại, bạn có thể khiếu nại về quyết định thi hành án tới cơ quan thi hành án đã ra quyết định đó hoặc có thể khiếu kiện về quyết định đó đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
    Lưu ý: Nếu thời hiệu khiếu nại trên đã hết, bạn không có quyền khiếu nại nhưng vẫn có quyền khiếu kiện quyết định thi hành án tới Tòa án nhân dân để được giải quyết theo thủ tục Tố tụng hành chính.
    Căn cứ điều 6 Luật Tố tụng hành chính về giải quyết bồi thường trong vụ án hành chính, căn cứ khoản 1 điều 38 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự, nếu quá trình khiếu nại, khiếu kiện chứng minh cơ quan Thi hành án đã ra quyết định thi hành án trái pháp luật và quyết định đó đã gây thiệt hại, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm thì bạn có quyền yêu cầu được bồi thường theo đúng quy định.
    II. Về quyền chăm sóc, thăm gặp con
    Căn cứ theo Điều 83, luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
    “1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
    2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
    Như vậy, khi có quyết định, bản án ly hôn của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì Quyết định này chỉ có ý nghĩa chấm dứt quan hệ pháp lý giữa vợ chồng, còn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con cái vẫn phải được đảm bảo thực hiện. Việc thăm nom, chăm sóc con là quyền và nghĩa vụ lợi ích hợp pháp của bạn sau khi ly hôn mà không ai được cản trở. Quyền này đã được ghi nhận trong bản án của Tòa án. Bạn cần phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng, theo căn cứ tại điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
    “1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
    2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”
    Trong trường hợp, nếu vợ bạn gây khó, cản trở bạn đến quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Bạn có thể thực hiện như sau:
    1, Nhờ tổ trưởng dân phố chứng kiến và xác nhận vào đơn về việc có đến thăm nom nhưng người kia gây khó khăn, cản trở.
    2, Đến trường làm đơn xác nhận, xin sao chụp hồ sơ học bạ, sổ liên lạc… để minh chứng tình trạng sức khỏe, hạnh kiểm và học lực của con
    3, Làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án giải quyết cho thi hành vấn đề thăm nom, chăm sóc con chung theo án Tòa.
    4. Tố cáo hành vi cản trở, ngăn cản quyền thăm gặp con để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi này.
    Sau đó, cơ quan Thi hành án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác mời các bên đến làm việc, người trực tiếp chăm sóc sẽ cam kết về việc tạo mọi điều kiện cho người kia được thăm con, không gây khó nữa.
    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi, nếu còn vướng mắc bạn có thể gọi để nghe luật sư tư vấn cụ thể hơn.
    Trân trọng!
     
  • Xem thêm     

    17/08/2017, 03:25:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Đã trả lời

  • Xem thêm     

    17/08/2017, 02:46:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Như thông tin bạn cung cấp, có người đã đặt hàng trên mạng và bùng hàng của bạn trị giá 3 triệu. Người mua chối bỏ và bảo gia đình nói chuyện với bạn chối bỏ mọi  trách nhiệm về hành vi của em ấy. Như vậy, người này có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên với số tiền 3 triệu đồng thì người này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp người này gây hậu quả nghiêm trọng hoặc trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản thì người mua đinh lăng của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
    Do đó, bạn cần làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan công an cấp huyện nơi người mua đinh lăng cư trú để cơ quan công an thực hiện nhiệm vụ điều tra, xác minh vụ việc. Nếu có đủ cấu thành tội phạm, người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu không đủ cấu thành tội phạm, người này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
    ''1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    ...
    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;''
     
    Tuy nhiên việc chứng minh hậu quả nghiêm trọng do hành vi không trả tiền của khách hàng gây ra khá khó khăn. Nếu không thể có đủ chứng cứ chứng minh để tố cáo hành vi của khách hàng ra cơ quan công an thì bạn có thể gửi đơn ra Tòa án dân sự để kiện khách hàng đó vì hành vi vi phạm nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng dân sự.
     
  • Xem thêm     

    15/08/2017, 08:15:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại Điều 202 Bộ Luật Hình sự như sau:

    "1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

     2. Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

    Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác.

    Như vậy, khi người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, có hành vi vi phạm quy định Luật Giao thông đường bộ hoặc văn bản quy phạm pháp luật khác, là nguyên nhân chính, nguyên nhân trực tiếp làm xảy ra vụ tai nạn giao thông và gây thiệt hại về người, tài sản, sức khỏe, thỏa mãn điều kiện quy định của pháp luật hình sự, thì đó chính là lỗi hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự. Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường

15 Trang «<101112131415>