Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

107 Trang «<2345678>»
  • Xem thêm     

    23/01/2022, 10:22:30 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Giao khoán đất là hình thức thỏa thuận thực hiện công việc trong các hoạt động quản lý, sử dụng, sản xuất, bảo vệ giữa bên giao khoán và bên nhận khoán có thời hạn theo văn bản giao khoán đất. Đất nhận khoán phải được khai thác, quản lý và sử dụng theo đúng hình thức mà các bên đã thỏa thuận.

    Căn cứ vào các điều kiện tại khoản 2 Điều 110; khoản 2 và khoản 3 Điều 112; các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 113; khoản 2 Điều 115; điểm b khoản 1, các điểm b, c, d, đ và e khoản 3 Điều 119; điểm b khoản 1, điểm b và điểm c khoản 2 Điều 120 của Luật Đất đai, chuyển nhượng đất chỉ được thực hiện khi đáp ứng được các điều kiện như sau:

    • Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
    • Đất không có tranh chấp;
    • Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
    • Trong thời hạn sử dụng đất.

    Đối với đất khoán trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng sẽ không thể chuyển nhượng. Tức là đối tượng nhận giao khoán đất: cá nhân, hộ gia đình không có quyền chuyển nhượng.

    Chú bạn được kiểm lâm và ủy ban bàn giao khoán đất rừng đặc dụng để khai thác trồng cây và kinh tế vườn, giờ chú già sức yếu muốn bàn giao cho bạn làm tiếp. Tuy nhiên, đất giao khoán được hưởng các quyền theo văn bản giao khoán, không có các quyền của người sử dụng đất, không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không thể tiến hành chuyển nhượng hợp pháp.

  • Xem thêm     

    15/11/2021, 05:23:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Trong trường hợp của bạn, căn cứ Khoản 5 Điều 98 Luật đất đai năm 2013 về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nêu trên, trường hợp có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp mà ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề thì khi cấp hoặc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích đất được xác định theo số liệu đo đạc thực tế.

    Trách nhiệm của UBND xã về quản lý đất đai trong trường hợp này chỉ xác định nguồn gốc, tình trạng đất đai để làm gia đình bạn thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai như cấp Giấy chứng nhận, chuyển quyền sử dụng đất hoặc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

    Trong trường hợp này, bạn chỉ có thể làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền (Văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện) giải quyết đo đạc thực tế và đính chính hoặc cấp lại mới số liệu thực tế trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    18/10/2021, 09:12:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015:

    “Điều 176. Mốc giới ngăn cách các bất động sản.

    2. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.”

    Theo quy định nêu trên và những thông thông tin bạn cung cấp thì bác bạn xây còn hàng xóm tô, trát vữa ở 1 mặt tường rào được xác định thuộc sở hữu chung của cả hai gia đình.

    Do đó khi bác bạn đập tường rào đi để xây dựng nhà thì đã xâm phạm tới quyền sử dụng tường rào chung của hai gia đình.

    Căn cứ quy định tại Điều 205 Luật đất đai năm 2013

    “Điều 205. Giải quyết tố cáo về đất đai

    1. Cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.

    2. Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.”

    Như vậy trong trường hợp này nhà hàng xóm có thể gửi đơn tố cáo hành vi vi phạm của nhà bạn tới cơ quan có thẩm quyền để giải quyết vấn đề này.

  • Xem thêm     

    24/09/2021, 11:02:08 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định 43/2014/NĐ-CP về Lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì: Các hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai bao gồm:

    “a) Điều tra, đánh giá đất đai; cải tạo đất;

    b) Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;

    c) Đo đạc, lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấ, quyền sở hữu nhà ow và tài sản khác gắn liền với đất.

    d) Tư vấn xác định giá đất;

    đ) Đấu giá quyền sử dụng đất;

    e) Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.”

    Theo đó, Khoản 1 Điều này quy định:

    “a) Văn phòng đăng ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tổ chức lại trên cơ sở hợp nhất Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường hiện có ở địa phương; có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp luật.

    Văn phòng đăng ký đất đai có chức năng thực hiện đăng ký đất đai và tài sản khác gắn liền với đất; xây dựng, quản lý, cập nhật, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; cung cấp thông tin đất đai theo quy định cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu;

    b) Văn phòng đăng ký đất đai có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký đất đai theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;...”

    Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì việc đo đạc để chứng minh có hành vi lấn chiếm hay không sẽ do cán bộ địa chính cấp xã cùng Văn phòng đăng ký đất đai tiến hành đo đạc và phải trả khoản tiền dịch vụ cho việc đo đạc này. Theo đó, hoàn toàn có thể yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai (trực thuộc sở Tài nguyên và Môi trường) thực hiện việc đo đạc lại mảnh đất nói trên. Tuy nhiên, hiện nay người có đất  đã làm đơn đến tòa án thì vụ việc này sẽ do cơ quan Tòa án giải quyết nên UBND không còn thẩm quyền giải quyết.

  • Xem thêm     

    04/09/2021, 10:54:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”.

    Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” là dấu hiệu cụ thể hóa hành vi khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em, đồng thời phân biệt hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đối với các hành vi khách quan của các tội phạm về tình dục khác được quy định. Về bản chất thì dấu hiệu này không phải là dấu hiệu mô tả hành vi khách quan của tội phạm mà đây là dấu hiệu để nhà làm luật phân biệt hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và với một số hành vi liền trước hành vi “giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác” ở trong tội phạm khác. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi như sau:

    Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục.

    Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội dâm ô người dưới 16 tuổi khi thực hiện một trong các hành vi dâm ô trẻ em như trên có thể bị phạt tù đến 12 năm. Tuy nhiên, chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt. Theo đó bạn là người dưới 18 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm về hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổitheo điều luật đã được viện dẫn ở trên.

  • Xem thêm     

    25/08/2021, 10:29:45 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo quy định căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 Luật đất đai năm 2013 về nghĩa vụ của người sử dụng đất:

    “Điều 170. Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất

    1. Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân theo các quy định khác của pháp luật có liên quan.

    2. Thực hiện kê khai đăng ký đất đai; làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”

    Như vậy, người sử dụng đất có nghĩa vụ phải sử dụng đất mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không.

    Và căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015:

    “Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản

    2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.

    Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

    Và người sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới thửa đất và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.

    Đối với trường hợp của bạn: nhà hàng xóm của bạn xây dựng phần mái nhà vươn sang phần khoảng không của đất nhà bạn làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của gia đình bạn. Do đó hành vi này của gia đình hàng xóm bạn là hành vi lấn chiếm khoảng không và vi phạm quy định của pháp luật.

    Việc Lấn chiếm khoảng không trên đất của người khác được quy định Hành vi lấn chiếm khoảng không trên đất người khác được hiểu là hành vi xây dựng mái che, mái nhà,… lấn chiếm sang khoảng không gian thuộc sở hữu của người khác.

    Đối với các Hành vi này vi phạm theo quy định tại Điều 12 Luật Xây dựng 2020, cụ thể là: “Sử dụng công trình không đúng với mục đích, công năng sử dụng; xây dựng cơi nới, lấn chiếm diện tích, lấn chiếm không gian đang được quản lý, sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và của khu vực công cộng, khu vực sử dụng chung.”

    - Ngoài ra hành vi xây dựng lấn chiếm khoảng không gian trên đất của người khác còn vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng, được quy định căn cứ dựa trên Điều 174 Bộ luật dân sự 2015: “…không được xâm phạm đến quyền, và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.

    – Việc Lấn chiếm khoảng không thuộc ngõ đi chung đó là  Đối với những thửa đất liền kề không có lối ra, chủ sở hữu của các thửa đất thường thỏa thuận dành ra lối đi chung, tuy nhiên vẫn xảy ra trường hợp những cá nhân xây dựng ban công, mái che, cửa sổ,…lấn chiếm phần không gian bên trên và quy định tương tự như hành vi lấn chiếm khoảng không trên đất người khác, hành vi lấn chiếm khoảng không thuộc lối đi chung vi phạm những quy định tại Điều 12 Luật Xây dựng 2020 và Điều 174 Bộ luật dân sự 2015 thì:

    + Hành vi trên sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 7 và khoản 11 Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng, xử phạt Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng và Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng vi phạm theo quy định của pháp luật.

    Do đó, bác bạn có thể đập bỏ bức tường rào của mình và nhà hàng xóm phải phá bỏ phần mái tôn, khung sắt lấn khoảng không, phần cổng nhô ra ở phía mặt tiền, có thể hai bên tự thỏa thuận về vấn đề di bỏ phần mái tôn, khung sắt ra khỏi phần đất nhà mình trước. Nếu họ vẫn không chịu tháo dỡ thì bác bạn có quyền yêu cầu UBND xã, phường, thị trấn giải quyết xử lý buộc tháo dỡ phần lấn chiếm sang diện tích đất của nhà bác bạn.

  • Xem thêm     

    15/08/2021, 09:23:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Tùy tính chất, mức độ, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    Truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Luật hình sự 2015 quy định, Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại....

    Về xử phạt hành chính, Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1-2 triệu đồng.

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Khi bạn phát hiện níck facebook bị hách và có dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó và không biết người đó là ai, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở nội dung tin nhắn qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook.

  • Xem thêm     

    31/07/2021, 12:33:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Theo quy định: Hành vi đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

    Nếu người bạn đó đã biết hành vi đánh bạc là sai trái mà cho số chủ đề số lô số đề trong việc ghi,nhận lô đề nên người đó có thể bi coi là hành vi vi phạm đánh bạc đánh bạc trái phép với vai trò đồng phạm..

    Người bạn cho số lô đề để người đánh đi đánh số lô đề đó là hành vi vi phạm, bên cạnh đó còn xuất hiện mục đích được thua bằng tiền nên ở đây có thể bị coi là hành vi đánh bạc trái phép, và người bạn đó có thể là người tổ chức đánh bạc trái phép.

    Như vậy, tùy từng hành vi của người bạn của bạn, có thể phải chịu trách nhiệm hình sự tội tổ chức đánh bạc hoặc Tội đánh bạc theo quy định Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Nếu không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh trai bạn thì anh trai bạn sẽ bị xử phạt hành chính đối với hành vi đánh bạc trái phép theo quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

  • Xem thêm     

    19/07/2021, 10:25:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận, facebook là mạng xã hội được thiết lập nhằm mục đích vui chơi giải trí hơn là mục đích tuyên truyền.Trong trường hợp nói xấu, đưa thông tin những điều không tốt về đồng nghiệp bạn bè trên trang cá nhân nhưng đó là những điều đúng sự thật thì không bị vi phạm. Tuy nhiên, những hành động như bóc phốt, nói xấu,.. mà sai sự thật thì những hành vi như trên có thể bị xử lý vì vi phạm pháp luật

    Theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi nói xấu người khác trên Facebook có thể xử lý vi phạm hành chính, chịu trách nhiệm dân sự, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Về xử lý hành chính:

    Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử thì cá nhân có hành vi “cung cấp, chia sẽ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân khác” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

    Về trách nhiệm dân sự:

    Đối với hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân, tổ chức khác, người vi phạm phải bồi thường chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự 2015.

    Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định

    Ngoài ra, người bị thiệt hại còn có quyền buộc người vi phạm xin lỗi, cải chính công khai theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Bộ luật dân sự 2015.

    Về xử lý hình sự:

    Ngoài việc chịu trách nhiệm hành chính và dân sự, những hành vi mang tính chất nghiêm trọng sẽ bị truy tố trách nhiệm hình sự. Cụ thể như sau:

    Hành vi sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể bị xử lý hình sự với Tội làm nhục người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội làm nhục người khác: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    …”

    Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xem xét về nội dung, mức độ, mục đích của bình luận đó có gây hoặc khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng tiêu cực đến người bị xúc phạm, nói xấu hay không?

    Vì vậy, việc bạn cần làm để tự bảo vệ mình:

    - Thu thập toàn bộ chứng cứ liên quan đến việc hàng xóm có xúc phạm bạn qua facebook

    - Gửi đơn tố cáo tới cơ quan công an để được nhờ sự giúp đỡ.

  • Xem thêm     

    16/07/2021, 11:28:57 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Theo Điều 127 BLDS 2015, giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép và “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.

    Việc đưa thông tin không rõ ràng và có chủ ý như vậy rất dễ gây nhầm lẫn cho người tiếp nhận.

    Hành vi cố ý của người lừa dối thường được biểu hiện dưới dạng một thủ đoạn gian dối, lời nói dối, ví dụ mảnh đất này ông Lê đang và đã cho người ta thuê lại mảnh đất này 8 năm và họ vẫn đang sử dụng. Hẳn nhiên, không có sự khác biệt về bản chất, nhưng có sự khác nhau về mức độ giữa lừa dối và lừa đảo. Một hành vi lừa đảo là một hành vi lừa dối song một hành vi lừa dối không nhất thiết bị coi là một hành vi lừa đảo. Vì vậy, sự lừa dối có thể dẫn tới chế tài dân sự, ngay cả khi người lừa dối không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sự lừa dối phải xuất phát từ một ý định lừa dối rõ ràng. Trong trường hợp của bạn thường tìm cách giới thiệu mảnh đất của mình bằng những gì khác với thực tế.

    Do gia đình bạn ý thức được việc mình không có giấy tờ nhà đất bên kia là giả mạo nhưng lại nói dối là có đủ điều kiện chuyển quyền, như vậy trong trường hợp này, giao dịch mua chuyển quyền sử dụng đất giữa gia đình bạn và người kia bị vô hiệu do bị lừa dối, căn cứ theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015.

    Khi có những căn cứ xác định rằng do chủ đất và môi giới có những hành vi lừa dối, khiến gia đình bạn tin tưởng hiểu sai lệch về mảnh đất nên đã giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì giao dịch dân sự này là vô hiệu. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là các bên trao trả cho nhau những gì đã nhận. Cụ thể, với trường hợp của bạn là bên chủ đất phải có trách nhiệm trả lại số tiền bạn đã mua đất.

    Do đó, giao dịch chuyển quyền sử dụng đất không làm phát sinh trách nhiệm giữa các bên, căn cứ theo quy định tại điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

    Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

  • Xem thêm     

    16/07/2021, 10:27:24 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Nghị định 79/2019 của Chính phủ sửa đổi điều 16 Nghị định 45/2014 vừa được ban hành về việc thu tiền sử dụng đất, quy định từ ngày 1.3.2021, các hộ gia đình, cá nhân còn nợ tiền sử dụng đất mà chưa thanh toán sẽ phải thanh toán số tiền còn nợ theo chính sách và giá đất tại thời điểm trả nợ.

    Theo đó, Hộ gia đình, cá nhân trên được trả nợ dần trong thời hạn 05 năm kể từ ngày có quyết định giao đất tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn 05 năm này.

    Để được ghi nợ tiền sử dụng đất, hộ gia đình, cá nhân nộp Đơn đề nghị ghi nợ tiền sử dụng đất và giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được ghi nợ tiền sử dụng đất cùng với hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật (trong đó bao gồm: Quyết định giao đất tái định cư và Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt) tại Văn phòng đăng ký đất đai hoặc cơ quan tài nguyên và môi trường (sau đây gọi là Văn phòng

    Trường hợp sau 05 năm kể từ ngày có quyết định giao đất tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà hộ gia đình, cá nhân chưa trả hết nợ tiền sử dụng đất ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận) thì hộ gia đình, cá nhân phải nộp đủ số tiền sử dụng đất còn nợ và tiền chậm nộp tính trên số tiền còn nợ theo mức quy định của pháp luật về quản lý thuế từ thời điểm hết thời hạn 05 năm được ghi nợ tới thời điểm trả nợ.

    Như vậy, nếu trường hợp quá 5 năm nhưng vẫn chưa trả hết nợ thì buộc phải thanh toán số nợ + tiền chậm nộp

    Tiền chậm nộp tính trên số tiền còn nợ (được xác định từ thời điểm hết thời hạn 05 năm kể từ ngày có quyết định giao đất tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến thời điểm hộ gia đình, cá nhân đến cơ quan thuế để xác định lại)

    Hộ gia đình, cá nhân đến cơ quan thuế để được xác định lại số tiền sử dụng đất còn nợ và nhận Thông báo của cơ quan thuế. Thời hạn nộp tiền vào kho bạc là 30 ngày kể từ ngày ghi trên Thông báo.

    Quá thời hạn 30 ngày mà không nộp thì sẽ bị phạt theo quy định.

  • Xem thêm     

    13/07/2021, 05:08:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Đây là một quyền đối với bất động sản, và nguyên tắc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề được hiểu như sau:

    – Các bên tự thỏa thuận về việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề. Nếu các bên không có thỏa thuận thì việc thực hiền quyền này được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:

    + Bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng quyền phù hợp với mục đích sử dụng của cả bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền.

    + Không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền.

    + Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn.

    – Chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải thông báo trước cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong một thời hạn hợp lý khi có sự thay đổi về việc sử dụng, khai thác bất động sản chịu hưởng quyền dẫn đến thay đổi việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền. Chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền phù hợp với sự thay đổi đó.

    Căn cứ nguyên tắc trên, điều 252 Bộ luật dân sự  2015 đã có quy định liên quan đến Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề:

    “Trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy.”

    Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại”

    Như vậy, nhà hàng xóm có quyền thoát nước ngang qua nếu rơi vào trường hợp nêu trên, tuy nhiên cần lưu ý hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho nhà bạn khi có đường dẫn nước.

    Trường hợp của bạn, các bên nên hòa giải với nhau, nếu không hòa giải được bên bị thiệt hại có quyền làm đơn khiếu nại gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc quận, huyện nơi trực tiếp quản lý. Ngoài ra, còn có thể làm đơn khởi kiện hộ gia đình ở bên ngoài về hành vi gây thiệt hại đối với bất động sản liền kề gửi đến Tòa án Nhân dân cấp huyện.

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:55:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Không vấn đề gì, cám ơn bạn đã tham khảo

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:54:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Không vấn đề gì

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:53:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Trường hợp gia đình bạn gặp phải là trường hợp liên quan đến quyền hạn chế đối với bất động sản liền kề theo quy định của pháp luật dân sự. Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thoả thuận khác.

    Cụ thể, trường hợp của bạn và gia đình phía bên trong thuộc trường hợp quyền cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại.

    Như vậy, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình, gia đình ở trong có quyền làm đơn khiếu nại gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc quận, huyện nơi trực tiếp quản lý. Ngoài ra, nếu không cho họ cấp, thoát nuóc, họ còn có thể làm đơn khởi kiện hộ gia đình bạn về hành vi xâm phạmhạn chế quyền đối với bất động sản liền kề gửi đến Tòa án Nhân dân cấp huyện; trong đơn ghi rõ lối cấp, thoát nước qua bất động sản ở ngoài là lối cấp thoát nước duy nhất và thích hợp nhất.

    Trường hợp có thể hòa giải, thỏa thuận bồi thường với hộ gia đình có nước chảy qua.

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:44:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Để được bồi thường về đất gia đình bạn phải có Sổ đỏ hoặc đủ điều kiện cấp Sổ đỏ

    Khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định điều kiện được bồi thường về đất khi thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với hộ gia đình, cá nhân như sau:

    “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này;…”.

    Như vậy, để được bồi thường về đất thì hộ gia đình, cá nhân cần đáp ứng đủ điều kiện sau:

    - Đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm.

    - Có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận (điều kiện cấp Giấy chứng nhận khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất gồm 02 trường hợp: Có giấy tờ và không có giấy tờ về quyền sử dụng đất).

    Trường hợp duy nhất không đủ điều kiện cấp Sổ đỏ vẫn được bồi thường được quy định tại Khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định:

    “2. Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này”.

    Theo đó, mặc dù không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận nhưng vẫn được bồi thường về đất nếu đáp ứng đủ 02 điều kiện sau:

    - Là đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004.

    - Người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.

    Căn cứ và quy định tại Khoản 2 Điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn sẽ không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đồng nghĩa với việc, đất công ích sẽ không được cấp sổ đỏ.

    Tuy nhiên, sau thời hạn sử dụng đất công ích kết thúc, người dân có thể lên UBND cấp xã, phường để làm thủ tục xin phép tiếp tục sử dụng diện tích đất này.

    Trong trường hợp diện tích đất hiện không còn thuộc diện tích đất công ích và có thể chứng minh đã sử dụng ổn định, lâu dài cũng như không có tranh chấp, gai đình bạn sẽ được phép làm hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 04:31:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Đã giải quyết rồi!

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 04:29:55 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Đã được trả lời rồi!

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 04:28:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn nêu là biện pháp phong tỏa tài khoản được cơ quan điều tra áp dụng. Phong tỏa tài khoản được áp dụng đối với tài khoản của cá nhân, tổ chức có căn cứ xác định số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội.

    Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 12 Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-NHNN hợp nhất Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt có quy định các trường hợp tạm khóa và phong tỏa tài khoản thanh toán như sau:

    “3. Việc chấm dứt phong tỏa tài khoản thanh toán được thực hiện khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc các tranh chấp theo quy định tại khoản 2 Điều này đã được giải quyết.”

    Theo đó, thẩm quyền hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài sản của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra; của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS trong giai đoạn truy tố; của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự

    Biện pháp phong tỏa tài khoản được hủy bỏ khi có căn cứ: Đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với pháp nhân được Tòa án tuyên không phạm tội; pháp nhân phạm tội không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại;

    Trong trường hợp của bạn phải được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thấy không còn cần thiết tiếp tục phong tỏa tài khoản nữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản khi thấy không còn cần thiết.

    Nếu muốn hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản, bạn phải có đơn gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trình bày nguyện vọng và chứng minh là người quản lý hợp pháp tài khoản, các gia dịch là hợp pháp. Nếu xét thấy việc hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản không làm ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án thì sẽ được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp này.

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 03:58:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2185)
    Số điểm: 12485
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1603 lần
    Lawyer

    Đối với việc bắt anh bạn thực hiện những hành vi mà anh không thực hiện trước khi bị đánh gục, dựng hiện trường với nội dung ép buộc người bị hại thực hiện hành vi mà bị hại không làm. Trong trường hợp này, nếu hành vi đóxâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh bạn thì anh bạn có quyền khiếu nại sự việc này đến cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào Điều 34, 35, 36 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

    Để cơ quan công an mời anh bạn lên làm việc thì bạn nên viết đơn gửi khiếu nại lên Thủ trưởng công an và Viện trưởng của Viện kiểm sát cùng cấp . Trong đơn anh bạn phải ghi rõ nội dung vụ việc, những quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, đề nghị với cơ quan Công an và Viện kiểm sát cần sớm đưa vụ án ra để giải quyết nhằm kịp thời đảm bảo quyền và những lợi ích hợp pháp của anh bạn.

    Khi giải quyết đơn thì thủ trưởng cơ quan điều tra sẽ có chỉ đạo để điều tra viên tiến hành mời anh bạn lên cơ quan công an giải quyết. Nếu như vấn không có kết quả thì anh bạn có thể gửi đơn lên cơ quan công an cấp trên qua đường bưu điện.Hoặc biện pháp mà nhiều người cũng thường sử dụng đề tìm kiếm sự quan tâm cho vụ việc gia đình bạn là Báo chí.

107 Trang «<2345678>»