Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

16 Trang «<78910111213>»
  • Xem thêm     

    06/09/2018, 11:38:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo Điều 116,119, 385 BLDS 2015 thì Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Như thông tin bạn đã cung cấp, bạn và bạn của bạn giao kết hợp đồng mua bán tài sản dưới hình thức lời nói.

    Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: 

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 

    a) Có tổ chức; 

    b) Có tính chất chuyên nghiệp; 

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; 

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; 

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; 

    e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 

    g) Tái phạm nguy hiểm”. 

    Trong trường hợp của bạn, người kia nhận được tài sản của bạn thông qua hình thức giao dịch hợp đồng mua bán, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, với giá trị tài sản là 97,35 triệu đồng. Như vậy, người kia có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 2 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Bạn cần làm đơn tố cáo tới cơ quan công an cấp huyện để điều tra xác minh tội phạm.

  • Xem thêm     

    31/08/2018, 06:10:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Với cướng mắc trên, Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Về mức phạt hành chính:

    Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định như sau:

    Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;

    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác”.

    Từ đây hai bạn có thể bị xử phạt hành chính vì cả hai người đều có hành vi đánh nhau và gây rối trật tự công cộng.

    Về truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi cố ý gây thương tích:

    Để xác định nếu bên gây thương tích phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, ta cần căn cứ vào mức độ thương tật của bạn.

    Thứ nhất, nếu tỉ lệ thương tật từ 11% trở lên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 Bộ luật Hình sự:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; 

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; 

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; 

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; 

    đ) Có tổ chức; 

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; 

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; 

    i) Có tính chất côn đồ; 

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: 

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; 

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; 

    c) Phạm tội 02 lần trở lên; 

    d) Tái phạm nguy hiểm; 

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: 

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này; 

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; 

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; 

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”. 

    Thứ hai, trong trường hợp tỷ lệ thương tật của bạn dưới 11% hoặc không thuộc các trường hợp tại 134 BLHS đã nêu trên thì người gây thương tích có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo điểm e, khoản 3, Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ – CP thì đối với hành vi xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe người khác sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng. Do đó, bạn cần phải xác định chính xác tỉ lệ thương tật do người kia gây ra để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    31/08/2018, 06:09:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo điều 20 luật tố cáo 2011 về việc tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo quy định như sau: 

    “1. Khi nhận được tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:

    a) Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày;

    b) Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo, nếu có yêu cầu. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết”.

    Theo quy định trên thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, cơ quan công an thành phố, công an tỉnh nơi bạn gửi đơn tố cáo phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và đưa ra quyết định việc thụ lý, không thụ lý. Nếu trong trường hợp đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan công an thành phố, công an tỉnh thì trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn tố cáo cơ quan công an phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo biết (nếu có yêu cầu).

    Đối với trường hợp của bạn, nếu nhận thấy cơ quan công an thành phố, công an tỉnh giải quyết không đúng pháp luật thì bạn có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo theo điều 27 luật tố cáo 2011. Cụ thể: 

    “Điều 27. Việc tố cáo tiếp, giải quyết vụ việc tố cáo tiếp

    1. Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng pháp luật thì người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo.

    2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét, xử lý như sau:

    a) Trường hợp quá thời hạn quy định tại Điều 21 của Luật này mà tố cáo không được giải quyết thì yêu cầu người có trách nhiệm giải quyết tố cáo phải giải quyết, trình bày rõ lý do về việc chậm giải quyết tố cáo; có biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo;

    b) Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo;

    c) Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo trình tự quy định tại Điều 18 của Luật này”.

    Do vậy, bạn nên gửi đơn tố cáo đến Bộ công an hoặc Viện Kiểm sát để được xem xét, xử lý.

  • Xem thêm     

    31/08/2018, 04:01:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo Điều 249 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

    1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

    c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

    d) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

    h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

    i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: 

    a) Có tổ chức; 

    b) Phạm tội 02 lần trở lên; 

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; 

    đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội; 

    e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam; 

    g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; 

    h) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam; 

    i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam; 

    k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam; 

    l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam; 

    m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít; 

    n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này; 

    o) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: 

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam; 

    b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam; 

    c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam; 

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam; 

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam; 

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam; 

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít; 

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: 

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên; 

    b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng 100 gam trở lên; 

    c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng 75 kilôgam trở lên; 

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên; 

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên; 

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên; 

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên; 

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Theo tìm hiểu của chúng tôi, ma túy tổng hợp dạng kẹo có tên khoa học là dimethyl (methylenedioxy), phenethylamine; tên chất là MDMA. “Kẹo” có nhiều thể hình, kích thước khác nhau, có loại bằng cúc áo nhỏ, có loại hình đầu lâu, hình mặt người, dạng viên nén, nhiều màu sắc và lô gô khác nhau đã du nhập vào Việt Nam khoảng từ năm 2012 đến nay, được một số thanh niên, học sinh, sinh viên sử dụng tập thể tại các quán bar, nhà hàng…Do thông tin bạn cung cấp là 10 viên nén ma túy tổng hợp dạng kẹo mà bạn không cung cấp thông tin về khối lượng của 10 viên nén đó nên chúng tôi không thể phân tích kĩ hơn về việc  bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không.

    + Nếu 10 viên nén có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam thì bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249, bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    + Nếu 10 viên nén có khối lượng từ 0,5 gam đến dưới 30 gam thì bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm g Khoản 2 Điều 249, bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

    + Nếu 10 viên nén có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam thì bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 3 Điều 249, bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    + Nếu 10 viên nén có khối lượng từ 100 gam trở lên thì bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tang trữ trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 4 Điều 249, bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

    Ngoài ra, bạn còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

  • Xem thêm     

    23/08/2018, 11:26:13 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 22 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 về phòng vệ chính đáng, ta có:

    “Điều 22. Phòng vệ chính đáng

    1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”.

    Theo đó, khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không cần hội tủ các yếu tố:

    Thứ nhất, về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm).

    Thứ hai, về phía người phòng vệ: Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm.

    Thứ ba, hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.

    Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp, khi anh bạn bỏ chạy và bị người đàn ông đó rượt theo đến ngõ cụt, anh bạn không còn cách nào bèn quay lại chống trả người đàn ông đó, giựt được con dao của người đàn ông đó; anh bạn do hoảng sợ nên đã đâm liên tiếp vào người đàn ông đó làm ông ta chết. Do vậy, trong trường hợp của anh bạn thì anh bạn đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vì khi anh bạn giựt được con dao từ người đàn ông đó thì hành vi đam liên tiếp vào người đàn ông đó không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

    Điều 136 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

    a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm”.

    Như vậy, anh bạn đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng dẫn đến chết người, do vậy anh bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, bị phạt tù từ 01 năm 03 năm.

  • Xem thêm     

    23/08/2018, 11:11:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Điều 235 BLTTHS 2015 quy định về phục hồi điều tra như sau:

    Điều 235. Phục hồi điều tra

    1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật này mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.

    2. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.

    Theo đó, khi hết thời hạn điều tra nhưng không xác định được bị can thì cơ quan điều tra có quyền tạm đình chỉ điều tra. Và khi có đủ cơ sở để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ thì việc điều tra sẽ được phục hồi, tức là khi có đủ chứng cứ xác định được bị can thì vụ án của bạn được giải quyết tiếp tục theo thủ tục bình thường (khoản 1 điều 235). Do vậy, để vụ án được giải quyết nhanh chóng, bạn nên cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ cho cơ quan điều tra để phục vụ công tác điều tra.

    Điều 157 BLTTHS 2015 quy định về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự như sau:

    Điều 157. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự

    Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:

    1. Không có sự việc phạm tội;

    2. Hành vi không cấu thành tội phạm;

    3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

    4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

    5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

    6. Tội phạm đã được đại xá;

    7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;

    8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

    Điều 158. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự

    1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lý do; nếu xét thấy cần xử lý bằng biện pháp kh

    ác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

    Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.

    2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật này.

    Như vậy, khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hính sự mà cơ quan điều tra vẫn chưa xác định được bị can thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sư.

    Và sau đó bạn phải gửi đơn tố giác tội phạm lên cơ quan có thẩm quyền để bắt đầu tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự.

  • Xem thêm     

    06/08/2018, 11:15:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Người lái xe đó lái xe với hang taxi, nhân viên đó sẽ phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng lao động đã kí. Theo quy định tại Bộ luật dân sự thì “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Do vậy, trước hết, hãng taxi sẽ thực hiện việc bồi thường cho bên bị thiệt hại, sau đó, bạn sẽ yêu cầu người đã gây ra thiệt hại – nhân viên của bạn hoàn trả một khoản tiền cho công ty.

    Mức bồi thường do hai bên có thể thỏa thuận, đáp ứng được yêu cầu “toàn bộ và kịp thời”, “Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội’. Trường hợp mà hai bên không thỏa thuận được thì sẽ giải quyết dựa trên các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nhân viên bên bạn do vô ý gây ra tai nạn và nếu bạn cảm thấy mức bồi thường đã thỏa thuận không phù hợp với thực tế thì bên bạn có thể yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước thay đổi mức bồi thường.  

    Khi đã giải quyết xong phần trách nhiệm của công ty thì công ty taxi sẽ làm việc với nhân viên đã gây ra thiệt hại, yêu cầu nhân viên đó hoàn trả một khoản tiền cho công ty.

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 130 BLLĐ năm 2012 thì “Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này”.

    Như vậy, việc gây hư hỏng tài sản là xe taxi của công ty thì lái xe phải đền nhưng trong vụ việc lao động mà không tính vào thiệt hại của vụ TNGT.

  • Xem thêm     

    06/08/2018, 06:35:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Với vướng mắc trên, Luật sư giải đáp thắc mắc như sau:

    Theo như thông tin bạn đã cung cấp, người bán hàng kia đã thực hiện giao dịch dân sự (giao hàng) tuy nhiên lại giao không đúng số lượng, bạn có liên lạc lại nhưng không liên lạc được. Trong trường hợp này người bán hàng kia đã lạm dụng tín nhiệm của bạn để thực hiện giao dịch dân sự nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, tùy theo mức độ chiếm đoạt tài sản mà người đó có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc bị xử phạt hành chính

    Về truy cứu trách nhiệm hình sự, Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau:

    “Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    g) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

    4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Về xử phạt hành chính, Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, người có hành vi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1-2 triệu đồng (Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

     Do vậy, khi phát hiện dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở (nội dung tin nhắn trên điện thoại, qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook...).

    Tùy tính chất, mức độ, hành vi chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

  • Xem thêm     

    06/08/2018, 06:32:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Với vướng mắc trên, Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Thứ nhất, về hành vi sàm sỡ:

    Danh dự, nhân phẩm của con người có thể coi là những tài sản vô giá, bởi lẽ, chúng ta sẽ rất khó để có thể quy đổi danh dự, uy tín, nhân phẩm của một con người sang bất cứ một loại tài sản nào đó. Nói cách khác, danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh luôn được đề cao.

    Quay trở lại với vấn đề của bạn, nếu trong trường hợp mà bạn nói thực hiện hành vi sàm sỡ vợ người khác có thể bị coi đó là hành vi xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người khác thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức tiền phạt từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (Điểm a, Khoản 1, Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình).

    Tuy nhiên, nếu bạn có đủ chứng cứ, bằng chứng để chứng minh rằng, hành vi đó xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người vợ kia thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó còn phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại (Điều 592, Bộ luật Dân sự 2015). Theo đó, người đó không những phải trả các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, cũng như thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút mà còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người vợ kia gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Thứ hai, về hành vi đập phá đồ đạc:

    Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau:

    “1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

    đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

    ……”.

    Như vậy, người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không phụ thuộc vào mức độ gây thiệt hại. Theo đó, mức độ thiệt hại của hành vi này phải từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính vê hành vi này hoặc bị kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hòng tài sản, chưa được xóa án tích thì người có hành vi phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 
    Tuy nhiên, với những thông tin bạn cung cấp, chưa đủ để xác định xem người có hành vi đập phá nhà cửa của bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không. Trong trường hợp hành vi đập phá của người đó chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó có thể bị phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định số: 167/2013/NĐ-CP, số tiền phạt từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng. 

    Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà có cách xử lý khác nhau (có thể xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự), do đó không có mẫu đơn mà bạn cần. Người vợ kia có thể làm đơn tố cáo trình bày rõ việc mình bị sàm sỡ và hành vi đập phá đồ đạc của người đó, gửi cơ quan công an xã phường hoặc cơ quan điều tra để họ điều tra, xác mình rõ hành vi phạm tội.

  • Xem thêm     

    08/07/2018, 05:10:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.

    Với quy định này, hành vi trộm cắp tài sản của bạn dù giá trị lớn hay nhỏ đều là trái pháp luật. Nó không những xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ tài sản mà còn xâm phạm đến an ninh trật tự của xã hội, cộng đồng, là những giá trị mà pháp luật bảo vệ.

    Tuy nhiên, tùy theo giá trị tài sản bị trộm cắp mà hành vi này có thể bị xử lý hình sự hoặc chỉ bị xử phạt hành chính.  Theo quy định Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội trộm cắp tài sản:

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    Nếu xét thấy hành vi trộm cắp có dấu hiệu hình sự và thuộc trường hợp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự về tạm giữ thì cơ quan điều tra có quyền tạm giữ người vi phạm để điều tra, xác minh. Sau khi xác minh, nếu hành vi trộm cắp chưa đến mức xử lý hình sự thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Người bị tạm giữ trong trường hợp này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp. Trường hợp của bạn nêu giá trị tài sản 3 triệu 200 nghìn là đủ cơ sở xử lý hình sự thì người vi phạm sẽ bị khởi tố bị can để điều tra.

  • Xem thêm     

    05/07/2018, 11:00:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Bên B đã thuê nhà nguyên căn của bên A nhưng đã thiếu 2 tháng rưỡi tiền nhà chưa trả nhưng đã bỏ trốn vì mắc nợ nhiều và bỏ lại nhà thuê một số đồ đạc, tài sản trong nhà. Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 132 Luật nhà ở 2014 thì bạn được đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này.

    Điều 132. Đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở. 

    "....2. Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật này;

    b) Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;..."

    Như vậy, bên thuê nhà phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nhà. Khi bên thuê không trả ba tháng tiền nhà thì bên A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà theo điều luật ở trên nếu như các bên không có thỏa thuận khác.

    Ngoài ra, bên A không được thanh lý tài sản để trừ vào tiền mà bên thuê nhà nợ bởi vì giữa bên thuê và bên cho thuê không thỏa thuận rõ rằng khi bên thuê không trả tiền thuê nhà thì được thanh lý tài sản và số tiền mà bên B nợ thì đấy là sự thỏa thuận giữa hai bên, còn tài sản trong nhà thuộc quyền sở hữu của Bên B cho nên Bên A không được tự ý thanh lý số tài sản đấy để trừ tiền thuê nhà.

    Bên A nên tới cơ quan có thẩm quyền báo cáo để các cơ quan chức năng để yêu cầu phía bên kia phải trả tiền thuê nhà. Trong trường hợp của bạn nêu, có thể mời Thừa phát lập vi bằng về hiện trạng nhà đã cho thuê cùng kiểm kê một số tài sản có trong nhà.

    Phương thức lập vi bằng đi theo một quy trình khép kín: 

    + Ngay khi cửa của nhà cho thuê được mở ra, các bên giữ nguyên hiện trạng tài sản và không di dời, Thừa phát lại sẽ tiến hành quay phim, chụp hình và mô tả toàn bộ tài sản có trong nhà. 

    + Sau khi chắc chắn rằng việc quay phim, chụp hình và mô tả ban đầu đã đầy đủ, các bên tiến hành kiểm kê tài sản (có biên bản kiểm kê do bên kiểm kê lập, Thừa phát lại dùng để đính kèm vi bằng) và di dời các tài sản mà bên cho thuê cho rằng là của bên thuê để lại vào 1 căn phòng, khóa trái và niêm phong lại (Có thể chọn 1 kho trung lập để lưu kho, niêm phong). Thừa phát lại tiếp tục quay phim, chụp hình và mô tả bước tiếp theo này.

    - Vi bằng do Thừa phát lại lập trong trường hợp này nhằm chứng minh rằng, quá trình thu hồi nhà cho thuê diễn ra một cách khách quan, trung thực; liệt kê hết tất cả các tài sản có trong nhà cho thuê tránh trường hợp bên thuê sau này quay trở về và nại rằng mình đã bị thất thoát một khối tài sản lớn để lại trong nhà đã thuê rồi kiện đòi.

    Nếu Bên B quay lại thì bạn có quyền khởi kiện lên Tòa án yêu cầu Bên B thanh toán khoản tiền thuê và nếu như Bên B không thể chi trả được thì Tòa án mới có thẩm quyền kê biên tài sản của ông Bên B để trả lại cho Bên A chứ Bên A không có quyền tự ý bán tài sản của Bên B. 

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:38:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Với trường hợp của bạn khi phát hiện mất tiền trong ví bạn nêntrình báo sự việc tới cơ quan điều tra, công an phường nơi gần nhất. Cơ quan điều tra có trách nhiệm vào cuộc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như việc lấy dấu vân tay trên chiếc ví, dó đó chúng tôi không thể tư vấn chính xác là có lấy được dấu vân tay trên đó hay không.

    Dấu vân tay là một trong những dấu hiệu xác định tội phạm. Việc thu thập và xác định dấu vân tay được thực hiện trong quá trình điều tra thông qua quy trình khám nghiệm hiện trường. Như vậy, khi thực hiện tố giác tội phạm, việc lấy dấu vân tay là một trong những giai đoạn tố tụng. Nếu bạn yêu cầu sự can thiệp của 1 tổ chức, cá nhân ngoài tố tụng tự lấy mẫu vân tay thì sẽ chịu phí theo dịch vụ đã thỏa thuận.

     

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:20:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    bạn có thăc mắc gì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn bạn nhé

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:17:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo Điều 289 Bộ luật Dân sự 2015 thì việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhiều người có quyền liên đới là “nghĩa vụ mà theo đó mỗi người trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.

    Luật hôn nhân và gia đình đã quy định rõ về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng. Trong đó, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với “giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này”, bao gồm:

    Giao dịch nhằm đảm bảo điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

    Trong việc xác lập, thực hiện va chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

    Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.

    Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới trong những trường hợp quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình:

    Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

    Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

    Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

    Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

    Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường

    Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

    Chúng tôi thấy rằng, hành vi của người bạn đó là chủ đích cá nhân, được xác lập và thực hiện độc lập, không có sự tham gia của người vợ và cũng không thuộc các trường hợp phải chịu trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng như trên. Do vậy, người vợ không phải chịu trách nhiệm về việc trả lại xe cho bạn.

    Về hành vi của người bạn bạn, người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:

    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

    Như vậy, bạn có thể gửi yêu cầu lên cơ quan điều tra để cơ quan điều tra xác định và làm rõ vụ việc theo đúng quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:15:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Đối với trường hợp của bạn, do không có giấy tờ để chứng minh thỏa thuận giữa bạn với người đó nên rất khó để có căn cứ đòi lại cho bạn số tiền trên. Do đó, theo tôi để có giá trị chứng minh với trường hợp của bạn đó là những nội dung tin nhắn, ghi âm cuộc trò chuyện, email, … nếu bạn còn giữ thì sẽ có cơ sở để kiện đòi. Khi có một trong các chứng cứ chứng minh và lựa chọn hình thức giải quyết theo thủ tục khởi kiện tại Tòa án thì bạn nên nhờ Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận những nội dung tin nhắn trong điện thoại và email để làm bằng chứng đòi lại tiền.

    Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

    Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập…

    Khi bạn có đầy đủ bằng chứng chứng minh người vay tiền của bạn đã vi phạm nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn, thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người vay tiền phải có nghĩa vụ trả tiền vay cho bạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

    Trường hợp bạn muốn tư vấn về trường hợp tố cáo để người đó phải chịu trách nhiệm hình sự thì chúng tôi cần bạn cung cấp thêm một số thông tin để xác định các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đối với người đó hay không ?

     Nếu người hứa nhận xin điều chuyển công tác là người không có khả năng xin được việc nhưng đã có những hành vi, thủ đoạn gian dối để cho bạn lầm tưởng rằng người đó có khả năng điều chuyển việc để bạn tin tưởng giao tiền cho thì hành vi này có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017)

    Nếu trước khi nhận tiền, người đã hứa nhận xin điều chuyển công tác không có thủ đoạn gian dối mà sau khi nhận tiền của bạn mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản đó và có hành vi bỏ trốn thì có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự:

    Tuy nhiên, trường hợp này bạn có thể làm đơn tố giác tội phạm gửi đến cơ quan công an để được giải quyết và đảm bảo đòi lại số tiền trên.

  • Xem thêm     

    18/06/2018, 11:38:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Căn cứ điều 21 Luật tố cáo 2011 về thời hạn giải quyết tố cáo:

    “Điều 21. Thời hạn giải quyết tố cáo

    1. Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.

    2. Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn thời hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.”

    Theo quy định trên, thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày đối với các vụ việc thông thường, 90 ngày đối với các vụ việc phức tạp và có thể bị gia hạn(phải thông báo về việc gia hạn) không từ dưới 30 đến dưới 60 ngày. Do đó, vụ việc bạn tố cáo với cơ quan công an mới được nửa tháng, chưa hết thời hạn giải quyết tố cáo. Trường hợp quá thời hạn trên mà vụ việc của bạn vẫn chưa được giải quyết thì bạn có thể khiếu nại hành vi không giải quyết tố cáo của cơ quan công an theo trình tự quy định tại điều 7 Luật khiếu nại 2011 như sau:

    Điều 7. Trình tự khiếu nại

    1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.”

    Theo quy định trên, nếu quá thời hạn mà cơ quan công an không giải quyết tố cáo của bạn thì bạn có thể khiếu nại lần một tới người đã trực tiếp thụ lý vụ việc của bạn hoặc khởi kiện ra Tòa án cấp huyện. Nếu khiếu nại lần một không được giải quyết hoặc bạn không đồng ý với việc giải quyết đó thì có thể khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan công an cấp tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nếu không được giải quyết khiếu nại lần hai hoặc bạn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần hai thì có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

    Như vậy, thời gian giải quyết tố cáo của bạn chưa hết nên bạn cần chờ cơ quan công an giải giải quyết vụ việc của mình. Nếu hết thời hạn giải quyết tố cáo mà cơ quan công an vẫn chưa giải quyết thì bạn chưa thể khiếu nại hành vi này tới cơ quan công an tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh ngay mà phải tuân theo trình tự như trên.

  • Xem thêm     

    16/06/2018, 11:22:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Giữa bạn và người bán hàng đã hình thành một giao dịch mua bán hàng hóa theo điều 430 Bộ luật dân sự 2015“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”
    Theo quy định trên, bạn là người mua nên có nghĩa vụ trả tiền đầy đủ cho bên bán. Tuy nhiên khi hàng được gửi đến thì bạn không có đủ tiền trả nên số hàng đó bị gửi về cho người bán, bạn vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp này, bạn có thể thỏa thuận với người bán về việc tiếp tục hoặc chấm dứt thực hiện hợp đồng. Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì ngoài cước phí của lần gửi thứ hai, bạn còn phải chịu cước phí của lần gửi thứ nhất do lỗi của bạn. Nếu thỏa thuận hủy bỏ giao dịch mua bán và trước khi giao kết hai bên không thỏa thuận về việc phạt vi phạm thì người bán hàng có nghĩa vụ phải trả lại tiền cho bạn sau khi trừ các chi phí được xác định là thiệt hại do hành vi không nhận hàng của bạn(có thẻ là cước phí gửi hàng lần 1).

  • Xem thêm     

    16/06/2018, 11:20:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Không ai có quyền xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác trái pháp luật. Việc người cùng dãy trọ của bạn do không ưu bạn nên đã có hành vi đánh bạn là trái quy định của pháp luật.
    Nếu gây thương tích trên 11% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp đặc biệt thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
    đ) Có tổ chức;
    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
    i) Có tính chất côn đồ;
    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
    Trường hợp chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
    "3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác".
    Như vậy, người hàng xóm có hành vi xâm phạm sức khỏe của bạn là trái pháp luật, bạn nên đến cơ quan công an phường tố cáo sự việc để được giải quyết theo quy định của pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

  • Xem thêm     

    13/06/2018, 11:44:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm: Hành vi trái pháp luật, có thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật.

    Cụ thể Bộ luật Dân sự 2015, Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

    1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    Thông tin bạn nêu không rõ về quá trình xảy ra vụ tai nạn, bạn có cung cấp một thông tin kết luật điều tra là lỗi hỗn hợp. Lỗi hỗn hợp có thể hiểu là có lỗi của bên vi phạm và nạn nhân vi phạm quy định về về tham gia giao thông.

    Về các nội dung bồi thường theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015,Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

    Căn cứ theo quy định trên Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; thiệt hại khác do luật quy định.

    Nguyên tắc bồi thường:

    Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

    Mức bồi thường sẽ do hai bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án xác định dựa trên thiệt hại của người bị nạn cũng như mức độ lỗi. Luật sư  khi tư vấn cho các thiệt hại bồi thường sẽ giúp các bên có được những thỏa thuận đúng quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/06/2018, 09:47:50 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần
    Lawyer

    Theo như thông tin bạn cung cấp thì giữa bạn và người bạn của mình có thỏa thuận cụ thể về thời hạn giao trả chiếc laptop, khi bạn liên lạc thì người bạn đó vẫn trả lời chứ chưa có hành vi bỏ trốn hay trốn tránh không nghe điện thoại.

    Trong trường hợp này, trước hết bạn cần nói rõ với bạn của mình trước, xác định chính xác ngày nào cần phải trả chiếc laptop, nếu có thể bạn nên ghi nhận lại quá trình trao đổi này giữa mình và bạn (qua tin nhắn, hình ảnh, video, ghi âm...). Nếu quá hạn mà người bạn của bạn không giao trả chiếc laptop hoặc có dấu hiệu của việc bỏ trốn thì bạn cần trình báo vấn đề này với cơ quan công an.

    Khi đó người bạn này có thể bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể như sau:

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây: chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

    Đối với chủ hiệu cầm đồ, do laptop là tài sản mà chủ hiệu lại nhận cầm cố chiếc laptop của bạn từ 1 người khác nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì chủ hiệu cầm đồ sẽ bị xử phạt hành chính từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

16 Trang «<78910111213>»