Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

15 Trang «<78910111213>»
  • Xem thêm     

    06/08/2018, 06:35:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Với vướng mắc trên, Luật sư giải đáp thắc mắc như sau:

    Theo như thông tin bạn đã cung cấp, người bán hàng kia đã thực hiện giao dịch dân sự (giao hàng) tuy nhiên lại giao không đúng số lượng, bạn có liên lạc lại nhưng không liên lạc được. Trong trường hợp này người bán hàng kia đã lạm dụng tín nhiệm của bạn để thực hiện giao dịch dân sự nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, tùy theo mức độ chiếm đoạt tài sản mà người đó có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc bị xử phạt hành chính

    Về truy cứu trách nhiệm hình sự, Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau:

    “Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    g) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

    4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Về xử phạt hành chính, Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, người có hành vi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1-2 triệu đồng (Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

     Do vậy, khi phát hiện dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở (nội dung tin nhắn trên điện thoại, qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook...).

    Tùy tính chất, mức độ, hành vi chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

  • Xem thêm     

    06/08/2018, 06:32:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Với vướng mắc trên, Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Thứ nhất, về hành vi sàm sỡ:

    Danh dự, nhân phẩm của con người có thể coi là những tài sản vô giá, bởi lẽ, chúng ta sẽ rất khó để có thể quy đổi danh dự, uy tín, nhân phẩm của một con người sang bất cứ một loại tài sản nào đó. Nói cách khác, danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh luôn được đề cao.

    Quay trở lại với vấn đề của bạn, nếu trong trường hợp mà bạn nói thực hiện hành vi sàm sỡ vợ người khác có thể bị coi đó là hành vi xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người khác thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức tiền phạt từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (Điểm a, Khoản 1, Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình).

    Tuy nhiên, nếu bạn có đủ chứng cứ, bằng chứng để chứng minh rằng, hành vi đó xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người vợ kia thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó còn phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại (Điều 592, Bộ luật Dân sự 2015). Theo đó, người đó không những phải trả các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, cũng như thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút mà còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người vợ kia gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Thứ hai, về hành vi đập phá đồ đạc:

    Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau:

    “1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

    đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

    ……”.

    Như vậy, người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không phụ thuộc vào mức độ gây thiệt hại. Theo đó, mức độ thiệt hại của hành vi này phải từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính vê hành vi này hoặc bị kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hòng tài sản, chưa được xóa án tích thì người có hành vi phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 
    Tuy nhiên, với những thông tin bạn cung cấp, chưa đủ để xác định xem người có hành vi đập phá nhà cửa của bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không. Trong trường hợp hành vi đập phá của người đó chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó có thể bị phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định số: 167/2013/NĐ-CP, số tiền phạt từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng. 

    Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà có cách xử lý khác nhau (có thể xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự), do đó không có mẫu đơn mà bạn cần. Người vợ kia có thể làm đơn tố cáo trình bày rõ việc mình bị sàm sỡ và hành vi đập phá đồ đạc của người đó, gửi cơ quan công an xã phường hoặc cơ quan điều tra để họ điều tra, xác mình rõ hành vi phạm tội.

  • Xem thêm     

    08/07/2018, 05:10:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.

    Với quy định này, hành vi trộm cắp tài sản của bạn dù giá trị lớn hay nhỏ đều là trái pháp luật. Nó không những xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ tài sản mà còn xâm phạm đến an ninh trật tự của xã hội, cộng đồng, là những giá trị mà pháp luật bảo vệ.

    Tuy nhiên, tùy theo giá trị tài sản bị trộm cắp mà hành vi này có thể bị xử lý hình sự hoặc chỉ bị xử phạt hành chính.  Theo quy định Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội trộm cắp tài sản:

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    Nếu xét thấy hành vi trộm cắp có dấu hiệu hình sự và thuộc trường hợp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự về tạm giữ thì cơ quan điều tra có quyền tạm giữ người vi phạm để điều tra, xác minh. Sau khi xác minh, nếu hành vi trộm cắp chưa đến mức xử lý hình sự thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Người bị tạm giữ trong trường hợp này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp. Trường hợp của bạn nêu giá trị tài sản 3 triệu 200 nghìn là đủ cơ sở xử lý hình sự thì người vi phạm sẽ bị khởi tố bị can để điều tra.

  • Xem thêm     

    05/07/2018, 11:00:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Bên B đã thuê nhà nguyên căn của bên A nhưng đã thiếu 2 tháng rưỡi tiền nhà chưa trả nhưng đã bỏ trốn vì mắc nợ nhiều và bỏ lại nhà thuê một số đồ đạc, tài sản trong nhà. Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 132 Luật nhà ở 2014 thì bạn được đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này.

    Điều 132. Đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở. 

    "....2. Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật này;

    b) Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;..."

    Như vậy, bên thuê nhà phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nhà. Khi bên thuê không trả ba tháng tiền nhà thì bên A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà theo điều luật ở trên nếu như các bên không có thỏa thuận khác.

    Ngoài ra, bên A không được thanh lý tài sản để trừ vào tiền mà bên thuê nhà nợ bởi vì giữa bên thuê và bên cho thuê không thỏa thuận rõ rằng khi bên thuê không trả tiền thuê nhà thì được thanh lý tài sản và số tiền mà bên B nợ thì đấy là sự thỏa thuận giữa hai bên, còn tài sản trong nhà thuộc quyền sở hữu của Bên B cho nên Bên A không được tự ý thanh lý số tài sản đấy để trừ tiền thuê nhà.

    Bên A nên tới cơ quan có thẩm quyền báo cáo để các cơ quan chức năng để yêu cầu phía bên kia phải trả tiền thuê nhà. Trong trường hợp của bạn nêu, có thể mời Thừa phát lập vi bằng về hiện trạng nhà đã cho thuê cùng kiểm kê một số tài sản có trong nhà.

    Phương thức lập vi bằng đi theo một quy trình khép kín: 

    + Ngay khi cửa của nhà cho thuê được mở ra, các bên giữ nguyên hiện trạng tài sản và không di dời, Thừa phát lại sẽ tiến hành quay phim, chụp hình và mô tả toàn bộ tài sản có trong nhà. 

    + Sau khi chắc chắn rằng việc quay phim, chụp hình và mô tả ban đầu đã đầy đủ, các bên tiến hành kiểm kê tài sản (có biên bản kiểm kê do bên kiểm kê lập, Thừa phát lại dùng để đính kèm vi bằng) và di dời các tài sản mà bên cho thuê cho rằng là của bên thuê để lại vào 1 căn phòng, khóa trái và niêm phong lại (Có thể chọn 1 kho trung lập để lưu kho, niêm phong). Thừa phát lại tiếp tục quay phim, chụp hình và mô tả bước tiếp theo này.

    - Vi bằng do Thừa phát lại lập trong trường hợp này nhằm chứng minh rằng, quá trình thu hồi nhà cho thuê diễn ra một cách khách quan, trung thực; liệt kê hết tất cả các tài sản có trong nhà cho thuê tránh trường hợp bên thuê sau này quay trở về và nại rằng mình đã bị thất thoát một khối tài sản lớn để lại trong nhà đã thuê rồi kiện đòi.

    Nếu Bên B quay lại thì bạn có quyền khởi kiện lên Tòa án yêu cầu Bên B thanh toán khoản tiền thuê và nếu như Bên B không thể chi trả được thì Tòa án mới có thẩm quyền kê biên tài sản của ông Bên B để trả lại cho Bên A chứ Bên A không có quyền tự ý bán tài sản của Bên B. 

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:38:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Với trường hợp của bạn khi phát hiện mất tiền trong ví bạn nêntrình báo sự việc tới cơ quan điều tra, công an phường nơi gần nhất. Cơ quan điều tra có trách nhiệm vào cuộc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như việc lấy dấu vân tay trên chiếc ví, dó đó chúng tôi không thể tư vấn chính xác là có lấy được dấu vân tay trên đó hay không.

    Dấu vân tay là một trong những dấu hiệu xác định tội phạm. Việc thu thập và xác định dấu vân tay được thực hiện trong quá trình điều tra thông qua quy trình khám nghiệm hiện trường. Như vậy, khi thực hiện tố giác tội phạm, việc lấy dấu vân tay là một trong những giai đoạn tố tụng. Nếu bạn yêu cầu sự can thiệp của 1 tổ chức, cá nhân ngoài tố tụng tự lấy mẫu vân tay thì sẽ chịu phí theo dịch vụ đã thỏa thuận.

     

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:20:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    bạn có thăc mắc gì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn bạn nhé

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:17:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Điều 289 Bộ luật Dân sự 2015 thì việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhiều người có quyền liên đới là “nghĩa vụ mà theo đó mỗi người trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.

    Luật hôn nhân và gia đình đã quy định rõ về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng. Trong đó, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với “giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này”, bao gồm:

    Giao dịch nhằm đảm bảo điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

    Trong việc xác lập, thực hiện va chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

    Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.

    Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới trong những trường hợp quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình:

    Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

    Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

    Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

    Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

    Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường

    Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

    Chúng tôi thấy rằng, hành vi của người bạn đó là chủ đích cá nhân, được xác lập và thực hiện độc lập, không có sự tham gia của người vợ và cũng không thuộc các trường hợp phải chịu trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng như trên. Do vậy, người vợ không phải chịu trách nhiệm về việc trả lại xe cho bạn.

    Về hành vi của người bạn bạn, người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:

    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

    Như vậy, bạn có thể gửi yêu cầu lên cơ quan điều tra để cơ quan điều tra xác định và làm rõ vụ việc theo đúng quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:15:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Đối với trường hợp của bạn, do không có giấy tờ để chứng minh thỏa thuận giữa bạn với người đó nên rất khó để có căn cứ đòi lại cho bạn số tiền trên. Do đó, theo tôi để có giá trị chứng minh với trường hợp của bạn đó là những nội dung tin nhắn, ghi âm cuộc trò chuyện, email, … nếu bạn còn giữ thì sẽ có cơ sở để kiện đòi. Khi có một trong các chứng cứ chứng minh và lựa chọn hình thức giải quyết theo thủ tục khởi kiện tại Tòa án thì bạn nên nhờ Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận những nội dung tin nhắn trong điện thoại và email để làm bằng chứng đòi lại tiền.

    Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

    Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập…

    Khi bạn có đầy đủ bằng chứng chứng minh người vay tiền của bạn đã vi phạm nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn, thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người vay tiền phải có nghĩa vụ trả tiền vay cho bạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

    Trường hợp bạn muốn tư vấn về trường hợp tố cáo để người đó phải chịu trách nhiệm hình sự thì chúng tôi cần bạn cung cấp thêm một số thông tin để xác định các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đối với người đó hay không ?

     Nếu người hứa nhận xin điều chuyển công tác là người không có khả năng xin được việc nhưng đã có những hành vi, thủ đoạn gian dối để cho bạn lầm tưởng rằng người đó có khả năng điều chuyển việc để bạn tin tưởng giao tiền cho thì hành vi này có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017)

    Nếu trước khi nhận tiền, người đã hứa nhận xin điều chuyển công tác không có thủ đoạn gian dối mà sau khi nhận tiền của bạn mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản đó và có hành vi bỏ trốn thì có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự:

    Tuy nhiên, trường hợp này bạn có thể làm đơn tố giác tội phạm gửi đến cơ quan công an để được giải quyết và đảm bảo đòi lại số tiền trên.

  • Xem thêm     

    18/06/2018, 11:38:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ điều 21 Luật tố cáo 2011 về thời hạn giải quyết tố cáo:

    “Điều 21. Thời hạn giải quyết tố cáo

    1. Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.

    2. Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn thời hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.”

    Theo quy định trên, thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày đối với các vụ việc thông thường, 90 ngày đối với các vụ việc phức tạp và có thể bị gia hạn(phải thông báo về việc gia hạn) không từ dưới 30 đến dưới 60 ngày. Do đó, vụ việc bạn tố cáo với cơ quan công an mới được nửa tháng, chưa hết thời hạn giải quyết tố cáo. Trường hợp quá thời hạn trên mà vụ việc của bạn vẫn chưa được giải quyết thì bạn có thể khiếu nại hành vi không giải quyết tố cáo của cơ quan công an theo trình tự quy định tại điều 7 Luật khiếu nại 2011 như sau:

    Điều 7. Trình tự khiếu nại

    1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.”

    Theo quy định trên, nếu quá thời hạn mà cơ quan công an không giải quyết tố cáo của bạn thì bạn có thể khiếu nại lần một tới người đã trực tiếp thụ lý vụ việc của bạn hoặc khởi kiện ra Tòa án cấp huyện. Nếu khiếu nại lần một không được giải quyết hoặc bạn không đồng ý với việc giải quyết đó thì có thể khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan công an cấp tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nếu không được giải quyết khiếu nại lần hai hoặc bạn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần hai thì có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

    Như vậy, thời gian giải quyết tố cáo của bạn chưa hết nên bạn cần chờ cơ quan công an giải giải quyết vụ việc của mình. Nếu hết thời hạn giải quyết tố cáo mà cơ quan công an vẫn chưa giải quyết thì bạn chưa thể khiếu nại hành vi này tới cơ quan công an tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh ngay mà phải tuân theo trình tự như trên.

  • Xem thêm     

    16/06/2018, 11:22:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Giữa bạn và người bán hàng đã hình thành một giao dịch mua bán hàng hóa theo điều 430 Bộ luật dân sự 2015“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”
    Theo quy định trên, bạn là người mua nên có nghĩa vụ trả tiền đầy đủ cho bên bán. Tuy nhiên khi hàng được gửi đến thì bạn không có đủ tiền trả nên số hàng đó bị gửi về cho người bán, bạn vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp này, bạn có thể thỏa thuận với người bán về việc tiếp tục hoặc chấm dứt thực hiện hợp đồng. Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì ngoài cước phí của lần gửi thứ hai, bạn còn phải chịu cước phí của lần gửi thứ nhất do lỗi của bạn. Nếu thỏa thuận hủy bỏ giao dịch mua bán và trước khi giao kết hai bên không thỏa thuận về việc phạt vi phạm thì người bán hàng có nghĩa vụ phải trả lại tiền cho bạn sau khi trừ các chi phí được xác định là thiệt hại do hành vi không nhận hàng của bạn(có thẻ là cước phí gửi hàng lần 1).

  • Xem thêm     

    16/06/2018, 11:20:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Không ai có quyền xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác trái pháp luật. Việc người cùng dãy trọ của bạn do không ưu bạn nên đã có hành vi đánh bạn là trái quy định của pháp luật.
    Nếu gây thương tích trên 11% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp đặc biệt thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
    đ) Có tổ chức;
    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
    i) Có tính chất côn đồ;
    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
    Trường hợp chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
    "3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác".
    Như vậy, người hàng xóm có hành vi xâm phạm sức khỏe của bạn là trái pháp luật, bạn nên đến cơ quan công an phường tố cáo sự việc để được giải quyết theo quy định của pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

  • Xem thêm     

    13/06/2018, 11:44:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm: Hành vi trái pháp luật, có thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật.

    Cụ thể Bộ luật Dân sự 2015, Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

    1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    Thông tin bạn nêu không rõ về quá trình xảy ra vụ tai nạn, bạn có cung cấp một thông tin kết luật điều tra là lỗi hỗn hợp. Lỗi hỗn hợp có thể hiểu là có lỗi của bên vi phạm và nạn nhân vi phạm quy định về về tham gia giao thông.

    Về các nội dung bồi thường theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015,Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

    Căn cứ theo quy định trên Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; thiệt hại khác do luật quy định.

    Nguyên tắc bồi thường:

    Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

    Mức bồi thường sẽ do hai bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án xác định dựa trên thiệt hại của người bị nạn cũng như mức độ lỗi. Luật sư  khi tư vấn cho các thiệt hại bồi thường sẽ giúp các bên có được những thỏa thuận đúng quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/06/2018, 09:47:50 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo như thông tin bạn cung cấp thì giữa bạn và người bạn của mình có thỏa thuận cụ thể về thời hạn giao trả chiếc laptop, khi bạn liên lạc thì người bạn đó vẫn trả lời chứ chưa có hành vi bỏ trốn hay trốn tránh không nghe điện thoại.

    Trong trường hợp này, trước hết bạn cần nói rõ với bạn của mình trước, xác định chính xác ngày nào cần phải trả chiếc laptop, nếu có thể bạn nên ghi nhận lại quá trình trao đổi này giữa mình và bạn (qua tin nhắn, hình ảnh, video, ghi âm...). Nếu quá hạn mà người bạn của bạn không giao trả chiếc laptop hoặc có dấu hiệu của việc bỏ trốn thì bạn cần trình báo vấn đề này với cơ quan công an.

    Khi đó người bạn này có thể bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể như sau:

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây: chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

    Đối với chủ hiệu cầm đồ, do laptop là tài sản mà chủ hiệu lại nhận cầm cố chiếc laptop của bạn từ 1 người khác nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì chủ hiệu cầm đồ sẽ bị xử phạt hành chính từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

  • Xem thêm     

    11/06/2018, 11:27:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Khoản 15 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định về thời hạn thực hiện công việc nhất định trong quá trình thi hành án dân sự: “Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án của đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án; trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định thi hành án đó”.

    Tuy nhiên pháp luật lại không quy định cụ thể thời gian bao lâu phải thi hành xong bản án. Hiệu quả thi hành nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như: Người phải thi hành án có tự nguyện nộp tiền, tài sản để thi hành án hoặc họ có điều kiện để thi hành án hay không…

    Vì vậy, anh cần chủ động liên hệ trực tiếp với cơ quan thi hành án đang thụ lý việc thi hành án, đồng thời đề nghị họ thông báo tình trạng giải quyết việc thi hành án. Việc trao đổi với cơ quan thi hành án cần phải thực hiện bằng văn bản và yêu cầu trả lời bằng văn bản, điều này giúp anh có căn cứ để khiếu nại nếu có dấu hiệu của hành vi không vô tư, khách quan hoặc vi phạm pháp luật của chấp hành viên.

  • Xem thêm     

    11/06/2018, 11:24:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tội cố ý gây thương tích còn căn cứ vào mức độ thương tích để xác định trách nhiệm

    Căn cứ điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 :

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    …..

    i) Có tính chất côn đồ;…

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;….

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;….

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;….

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:….

    b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;…”

    Theo quy định trên, nếu hành vi gây thương tích cho người khác với tỉ lệ tổn thương là từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp tại khoản 1 điều 134 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

    Nếu không thuộc trường hợp hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 3 điều 5 Nghị định 167/2013:

    “3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:….

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;…”               

    Theo quy định trên, hành vi xâm hại sức khỏe của người khác mà chưa tới mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt hành chính với mức từ hai triệu đồng đến ba triệu đồng. Ngoài ra, người gây thương tích phải bồi thường thiệt hại cho bạn theo quy định của pháp luật dân sự.

  • Xem thêm     

    04/06/2018, 05:25:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo quy định của pháp luật hành vi tham gia đá gà lấy tiền là hành vi đánh bạc, tùy vào mức giá trị tài sản mà người đó sử dụng vào việc đánh bạc để xác định trách nhiệm.
    Trách nhiệm hình sự
    Căn cứ điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tội đánh bạc:
    “Điều 321. Tội đánh bạc
    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
    a) Có tính chất chuyên nghiệp;
    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
    d) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
    Chồng bạn mới tham gia lần đầu, do đó nếu chồng bạn đánh bạc được thua bằng tiền với giá trị từ 05 triệu đồng trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Tùy vào giá trị tài sản dùng vào việc đánh bạc mà xác định điều khoản áp dụng: nếu trong khoảng từ 5 triệu đến 50 triệu thì thuộc khoản 1 điều này với khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm; giá trị tài sản từ 50 triệu trở lên hoặc thuộc các trường hợp khác tại điểm a,c,d khoản 2 điều này thì khung hình phạt là từ ba năm đến bảy năm tù.
    Trách nhiệm hành chính
    Nếu không thuộc trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trên thì chồng bạn sẽ bị xử phạt vi pham hành chính theo khoản điều 26 Nghị định 167/2013
    Theo quy định tại điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
    "Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép
    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.
    2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:
    a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;
    b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
    c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;
    d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.
    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;
    b) Che giấu việc đánh bạc trái phép.
    4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:
    a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;
    b) Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;
    c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;
    d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.
    5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
    a) Làm chủ lô, đề;
    b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;
    c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
    d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.
    6. Hình thức xử phạt bổ sung:
    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có đối với hành vi quy định tại Khoản 1; Khoản 2; Điểm a Khoản 3; Điểm b, c, d Khoản 4 và Khoản 5 Điều này.
    ...."
     Tùy vào vai trò của chồng bạn trong khi tham gia đánh bạc mà có thể bị xử lý theo các khoản 1,2,3,4,5 điều 26 và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 6 điều này.
    Như vậy, tùy vào giá trị tài sản mà chồng bạn sử dụng vào việc đánh bạc để xác định trách nhiệm. Nếu giá trị tài sản từ 05 triệu trở lên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 321 Bộ luật hình sự, nếu dưới 05 triệu thì có thể bị xử phạt hành chính theo điều 26 nghị định 167/2013.

  • Xem thêm     

    31/05/2018, 05:40:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính theo Khoản 5 Điều 11 Luật Xử lý vi phạm hành chính“Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính không có năng lực trách nhiệm hành chính; người thực hiện hành vi vi phạm hành chính chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 của luật này, là một trong những trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính.”
    Theo khoản 15 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Người không có năng lực trách nhiệm hành chính là người thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.”
    Như vậy, khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà người đó mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính.
    Do đó, trong trường hợp phát hiện người thực hiện hành vi có tiền sử điều trị bệnh tâm thần thì phải đưa người đó đi giám định, nếu bị bệnh tâm thần thì không được xử phạt vi phạm hành chính. Nếu không đưa người đi giám định tâm thần mà xử lý vi phạm hành chính ngay là không phù hợp với quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    19/05/2018, 11:04:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trong trường hợp này, trước hết bạn cần nói rõ với bạn của mình trước, xác định chính xác ngày nào cần phải trả xe, nếu có thể bạn nên ghi nhận lại quá trình trao đổi này giữa mình và bạn ( qua tin nhắn, hình ảnh, video, ghi âm,...). Có thể người bạn của bạn khó khăn về tài chính nên đã cầm cố chiếc xe của bạn nhưng có khả năng chuộc cũng như đem trả lại cho bạn đúng hạn. 

    Nếu quá hạn mà người bạn của bạn không giao trả chiếc xe hoặc có dấu hiệu của việc bỏ trốn thì bạn cần trình báo vấn đề này với cơ quan công an xã, phường hoặc tố giác với cơ quan điều tra quận huyện để xử lý theo quy định. Khi đó người bạn này có thể bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể như sau:

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

    …..

    Đối với chủ tiệm cầm đồ, do xe máy là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà chủ tiệm lại nhận cầm cố chiếc xe của bạn từ 1 người khác nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì chủ tiệm cầm đồ sẽ bị xử phạt hành chính từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng

  • Xem thêm     

    19/05/2018, 10:51:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Việc nhờ trông giữ chiếc điện thoại giữa bạn và chủ cửa hàng ( sau đây gọi là cô A) đã làm phát sinh một hợp đồng gửi giữ tài sản theo điều 554 BLDS 2015: “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công.”

    Bạn đã nhận lời trông chiếc điện thoại cho cô A mà không nhận tiền công. Nghĩa vụ của bạn theo điều 557 BLDS:

    “1. Bảo quản tài sản theo đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ.

    …….

    4. Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”

    Như vậy, bạn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại tương ứng với giá trị tài sản bị mất hoặc do hai bên thỏa thuận về mức bồi thường. Bạn nhận trông giữ không công, đây có thể là một căn cứ để giảm mức bồi thường.

    Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp, chiếc điện thoại là do bị trộm mất mà không phải là do bạn làm hư hỏng. Do đó, bạn nên tới cơ quan công an để thông báo sự việc trên. Nếu điều tra được người lấy chiếc điện thoại thì bạn sẽ không phải bồi thường.

  • Xem thêm     

    19/05/2018, 10:50:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Do chưa xác định được công ty thuê bạn nghiên cứu web là công ty Việt Nam hay công ty nước ngoài, bởi vậy sẽ có hai trường hợp đặt ra:

    Thứ nhất: Công ty thuê bạn là công ty Việt Nam.

    Theo Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, cá độ được coi là hành vi đánh bạc quy định tại điều 321 BLHS. Hành vi thiết kế web cá độ là hành vi gá bạc và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 322 “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”:

    Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

    1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

    b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền Sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đng trở lên;

    c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

    d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoátkhi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

    đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương, tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Do đó, bạn nên từ chối nghiên cứu trong trường hợp này.

    Thứ hai: Công ty thuê bạn là Công ty nước ngoài và việc nghiên cứu thiết kế hoàn toàn ở nước ngoài thì sẽ không điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam. Do đó, Việc nghiên cứu web trong trường hợp này sẽ không vi phạm các quy định của phap luật Việt Nam.

15 Trang «<78910111213>»