Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

25 Trang «<2345678>»
  • Xem thêm     

    13/08/2020, 06:45:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Hành vi bạn nêu ở trên là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu: Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên; hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt hoặc về một trong các tội quy định tại điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;....

    Theo quy định trên thì hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.

    Theo đó, căn cứ vào những dấu hiệu của “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và những tình tiết bạn đưa ra, bạn hoặc người bị hại khác có thể tố cáo người có hành vi lừa đảo đó tại cơ quan công an nơi người đó. Do đó, bạn có quyền gửi đơn tố giác tội phạm tới cơ quan công an, Viện kiểm sát, để được bảo vệ quyền lợi của bạn. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Kèm theo đơn tố cáo là những bằng chứng, chứng cứ chứng minh cho hành vi lừa đảo này.

  • Xem thêm     

    09/08/2020, 10:45:50 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:

    “2. Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị can (nếu có).

    Quyết định truy nã bị can được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai để mọi người phát hiện, bắt người bị truy nã”

    Theo đó, việc ban hành lệnh truy nã phải được thông báo công khai bằng văn bản tới chính quyền địa phương, gia đình người bị truy nã và trên các thông tin đại chúng. Do đó, việc để biết một người bị truy nã hay không thì có thể liên hệ tới chính quyền địa phương để nhận biết.

  • Xem thêm     

    06/08/2020, 07:35:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 tại Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hành vi vi phạm nêu trên được quy định như sau:

    “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

    …..”

    Như vậy, theo quy định trên, thì người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp như trên thì đủ dấu hiệu quy định về số tiền phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Trường hợp chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì người đó sẽ bị xử lý hành chính theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 15 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó, người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đến 2.000.000 đồng.

    Tuy nhiên, trường hợp của bạn có đặt hàng qua mạng online facebook chưa tới 300.000đ và do bạn không đủ kinh tế để nhận và bạn cũng không chiếm đoạt tài sản đó nên không thể xử lý bạn bằng biện pháp hành chính hay hình sự được. Vụ việc của bạn chỉ dừng lại ở mức tranh chấp dân sự đơn thuần, cho nên bên bán chỉ có thể trực tiếp thỏa thuận về việc mua bán của bạn. Hai bên có thể thỏa thuận về việc mua bán hàng. Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận trên bên bán hàng cho bạn chỉ có thể khởi kiện sự việc đó đó bằng việc nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận, huyện nơi bạn cư trú.

  • Xem thêm     

    01/08/2020, 10:55:50 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp của của bạn kể trên cũng rất giống với những game thủ Việt Nam hiện tại. Đó là thường hay nhẹ dạ cả tin vào những tài khoản giá rẻ để rồi bị lừa một cách đáng tiếc. Hãy luôn là một người khôn ngoan và đừng dại tin vào bất kỳ lời quảng bá "acc giá rẻ" nào trên mạng xã hội để tránh rơi vào tình cảnh tiền mất tật mạng như bạn đã nêu.

    Để bảo vệ quyền là lợi ích chính đáng của mình cũng như ngăn chặn tội phạm thì bạn phải đến cơ quan công an để tố giác về hành vi phạm tội đó. Tố giác tội phạm là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bạn cần cung cấp đầy đủ các thông tin cho bên cơ quan tiếp nhận tin báo như: thông tin về người bán hàng, bằng chứng tiến hành giao dịch...Cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xác minh để làm rõ có hay không dấu hiệu của hành vi phạm tội trong trường hợp này. Nếu có dấu hiệu phạm tội họ sẽ tiến hành khởi tố vụ án hình sự và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho bạn.

  • Xem thêm     

    31/07/2020, 09:35:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Vụ án bạn nêu có lẽ được cơ quan điều tra suốt nhiều năm không thể tìm ra hung thủ hay thậm chí là một nghi phạm đáng nghi nào hết mặc dù tập trung hết lực lượng vào điều tra vụ án. Tuy nhiên chưa bao giờ đối mặt được với hung thủ. Cơ quan điều tra cũng cho biết vì các phương tiện hỗ trợ chưa đủ tiên tiến và hiện đại để giúp đỡ nhiều cho cơ quan điều tra lúc bấy giờ.

    Có lẽ bạn, người nhà nạn nhân chỉ biết trong chờ vào thời gian để cơ quan có thẩm quyền điều tra ra hung thủ vụ án mà thôi.

  • Xem thêm     

    29/07/2020, 05:40:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

    …”

    Nếu như mẹ bạn và cô H đã lấy đi số tiền của bạn thì nên thỏa thuận với nhau về số tiền và cũng như thỏa thuận được về việc trả tiền này.

    Thứ nhất, các bên nếu như có thỏa thuận được về việc dân sự và không có ý định khởi tố vụ án hình sự thì có thể làm văn bản thỏa thuận về việc trả tiền cho bạn.

    Thứ hai, nếu như các bên không có thỏa thuận về việc trả số tiền theo quy định pháp luật thì trong trường hợp này bạn có thể tố cáo với cơ quan công an có thẩm quyền về hành vi có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản để cơ quan công an tiến hành điều tra, xác minh. Nếu có đủ căn cứ kết luận hành vi của mẹ bạn và cô H kia là lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cơ quan công an có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và tiến hành theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự.

  • Xem thêm     

    28/07/2020, 01:01:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Hiện nay Bộ luật hình sự hiện hành không quy định hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm. Do đó bạn có thể hiểu rằng việc bạn mua ma túy về để sử dụng thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Tuy nhiên tại tiểu mục 3.6 mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định về khối lượng mua túy để truy cứu trách nhiệm hình sự với một số tội danh như sau:

    “3.6. Người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với số lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng dưới một gam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng dưới không phẩy một gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng dưới một kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng dưới năm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng dưới một kilôgam;

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới một gam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ mười mililít trở xuống.”

    Như vậy, với quy định trên ta có thể hiểu rằng nếu như bạn mua ma túy về để sử dụng mà vượt quá khối lượng nêu trên thì người đó sẽ bị truy cứ trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

    Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội tàng trứ trái phép chất ma túy như sau:

    Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

    “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

    c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

    d) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

    h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

    i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

    …”

    Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được hiểu là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.

    Căn cứ theo khoản 1 và 2 Nghị định số 167/2013/NĐ – CP về việc vi phạm các quy định về phòng, chống và kiểm soát ma túy:

    Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

    Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    Tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt chất ma túy trái phép;

    Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy;

    Sản xuất, mua, bán những dụng cụ sử dụng chất ma túy trái quy định của pháp luật.

    Theo như quy định trên, trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy mua ma túy có khối lượng nhỏ hơn mức để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó sẽ bị xử lý vi phạm hành chính.

    Trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy mua ma túy có khối lượng trên mức để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

    Trường hợp bạn nêu chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan công an đã xử lý phạt bạn bằng quyết định hành chính. Do đó, bạn vẫn phải ra tòa với tư cách người làm chứng và không bị kết án đi tù trừ khi phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật hình sự mới.

  • Xem thêm     

    27/07/2020, 09:02:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Đối với trường hợp người còn nợ tiền, theo quy định của Bộ luật Dân sự, nghĩa vụ của bên còn nợ là phải trả tiền cho dù là có khả năng ít hay nhiều, tương đương với nghĩa vụ trả tiền của bên nợ. Bên cho nợ có nhiều cách thức để đòi tiền, tuy nhiên dù là với cách thức nào thì cũng phải giữ đúng giới hạn luật định, những trường hợp sử dụng vũ lực để đòi tiền đều là những hành vi pháp luật không cho phép, bởi mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm thân thể.

    Với hành vi dùng vũ lực để đòi tiền thì phụ thuộc vào từng mức độ mà pháp luật sẽ có các hướng xử lý khác nhau; nhẹ thì bồi thường dân sự, nghiêm trọng hơn thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích, Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định, hướng dẫn tại Điều 170 Bộ luật hình sự

    Trong tình huống trên, nhận thấy anh bạn và hai người cùng đến nhà người nợ đòi tiền, hành vi đánh người và gây thương tích cho người nợ tiền có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 với tình tiết phạm tội có tổ chức (có 3 người thực hiện)

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    .....

    h) Có tổ chức;

    Về nguyên tắc để tiến hành đòi nợ thì chủ nợ phải khởi kiện ra tòa án nhân dân nơi bị đơn có hộ khẩu (đăng ký tạm trú) thì mới phù hợp với quy định của pháp luật. Hành vi cưỡng đoạt, khủng bố, đe dọa sẽ đối mặt với nguy cơ bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.

  • Xem thêm     

    27/07/2020, 07:48:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

    Hồ sơ xóa án tích gồm: Khi người bị kết án đương nhiên xóa án tích, nếu cần cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì làm đơn (Mẫu), kèm các tài liệu như giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp; giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khỏan bồi thường, án phí, tiền phạt; giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an Quận, Huyện nơi người bị kết án thường trú cấp (theo mẫu quy định của ngành Công an), bản sao hộ khẩu; bản sao chứng minh nhân dân.

    Như vậy, bạn phải nộp phạt tiền phạt trong bản án thì mới được thực hiện các thủ tục đương nhiên xóa án tích theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    21/07/2020, 12:24:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Thông thường khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì người dân có quyền thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan điều tra vào cuộc xử lý theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và được hướng đinh chi tiết tại Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

    Khi phát hiện có hành vi tội phạm thì mọi công dân đều có quyền tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

    “1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.

    2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

    3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

    4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.

    5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

    Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận theo  quy định tại Điều 146  Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

    Như vậy, khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật thì bạn gửi đơn trình báo, thông báo về tội phạm đến cơ quan công an có thẩm quyền thì cơ quan công an sẽ giải quyết theo quy định.

  • Xem thêm     

    20/07/2020, 12:41:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định thì người nào có lỗi mà gây hậu quả nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường, người nào vi phạm quy định về an toàn lao động gây chết người thì sẽ bị truy cứu trách nhiêm hình sự.

    Với vụ việc của bạn, bạn có thể làm đơn tố cáo hoặc trình báo gửi đến cơ quan công an để tố cáo hành vi mà bạn cho rằng hành vi đó là hành vi phạm tội. Sau khi bạn gửi đơn trình báo hoặc tố giác đến cơ quan công an có thẩm quyền thì cơ quan công an sẽ giải quyết điều tra sự việc của bạn về các hành vi tội phạm như đã nêu.

  • Xem thêm     

    19/07/2020, 06:02:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tội đánh bạc được hiểu là việc tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Do vậy đá gà ăn tiền cũng được xem là một hình thức trò chơi theo đó bên thắng sẽ được tiền và bên thua bị mất tiền, từ phân tích nêu trên có thể khảng định đây cũng được xem là hành vi của tội đánh bạc.

    Không phụ thuộc vào số tiền dùng để cá cược mà chỉ cần có hành vi cá cược sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của từng vụ việc và số tiền được sử dụng để cá cược mà người có hành vi này có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; thì đá gà ăn tiền có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể:

    “Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây: Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;”

    Như vậy, theo quy định trên, hành vi đánh bạc nói chung và hành vi chơi đá gà ăn tiền nói riêng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

    Với những cuộc cá cược lớn trong đá gà có quy mô lớn và mức độ nghiêm trọng hơn có thể bị xử phạt hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:

    Điều 321. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạctrái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

    Đối với tội phạm này nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nhưng lại quy định giá trị tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi đánh bạc, mà giá trị tiền hay hiện vật dùng vào việc đánh bạc có giá trị dưới 5. 000.000 VNĐ thì chưa cấu thành tội danh này.

    Tuy nhiên, việc đưa ra quyết định xử phạt thuộc thẩm quyền của Tòa án, cơ quan Công an xác minh điều tra đưa ra quyết định xử lýt.

  • Xem thêm     

    18/07/2020, 10:53:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Hành vi của người gửi ảnh nhạy cảm như ảnh dâm ô, đồi trụy cho bạn trên mạng xã hội là vi phạm vi phạm pháp luật.

    Căn cứ Nghị định 72/2013/NĐCP về quy định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng theo điểm b Khoản 1 Điều 5 về các hành vi bị cấm:

    “Điều 5. Các hành vi bị cấm

    1. Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích:

    b) Tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc;”

    Nhà nước ta nghiêm cấm việc lợi dụng internet và dịch vụ thông tin nhằm vào mục đích tuyên truyền, kích động dâm ô, đồi trụy, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hành vi trên có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 15/2020/NĐ-CP có quy định

    Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin

    3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

    g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;

    Hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội truyền bá văn hóa phẩm trụy theo Điều 326 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

    “1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có nội dung khiêu dâm, đồi trụy hoặc hành vi khác truyền bá vật phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dữ liệu được số hóa có dung lượng từ 01 gigabyte (GB) đến dưới 05 gigabyte (GB);

    b) Ảnh có số lượng từ 100 ảnh đến dưới 200 ảnh;

    c) Sách in, báo in hoặc vật phẩm khác có số lượng từ 50 đơn vị đến dưới 100 đơn vị;

    d) Phổ biến cho từ 10 người đến 20 người;

    đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm...”

    Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này thì phía bên người kia phải xác định về hành vi vi phạm có số lượng lớn hoặc phổ biến cho nhiều người hay đã bị xử phạt hành chính về cùng hành vi này mà chưa được xóa án tích thì ngươì kia mới bị khép vào tội "Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy".

    Căn cứ vào quy định của pháp luật thì bạn có thể nộp đơn tố cáo hành vi tội phạm của người này tại cơ quan công an. Để thuận tiện cho việc điều tra, bạn nên nộp đơn  kèm theo những chứng cứ về hành vi hoặc trình báo tại cơ quan có thẩm quyền như trên.

  • Xem thêm     

    18/07/2020, 10:43:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Nhiều bạn vẫn thường cho rằng việc liên hệ báo tin hoặc tố giác với cơ quan chức năng sau khi đã bị trộm là vô ích, vì gần như không thể tìm lại các tài sản bị trộm. Tuy nhiên, việc liên hệ với cơ quan cơ quan công an sẽ mang lại một số lợi ích thực tế.

    Theo những dấu vết hoặc những báo cáo mất mát do bên cơ quan công an lập ra, phía công an, cảnh sát khu vực có thể từ đó khoanh vùng đối tượng đối tượng đột nhập, và tăng khả năng bắt giữ kẻ trộm. Hơn nữa, khi nhận được báo cáo mất trộm tại địa phương, khu vực bạn sống sẽ được tăng cường tuần tra, và khả năng bạn bị mất trộm lần tiếp theo sẽ hạn chế rất nhiều.

    Để vụ việc được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, bạn hoặc người bị mất trộm nên trình bày rõ với cơ quan công an những điều khẳng định nghi ngờ của bạn và những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người bị nghi ngờ. Những chứng cứ này sẽ rút ngắn thời gian điều tra vụ án​. Căn cứ vào thời hạn giải quyết tin tố giác tôi phạm nêu trên bạn có thể xác định cơ quan Công An có tiến hành xử lý kịp thời sự việc mà bạn báo không. Nếu nhận thấy không được các cán bộ công an giải quyết, bạn nên nộp đơn tố cáo đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.

    Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải có trách nhiệm đối với việc tố cáo của bạn.

  • Xem thêm     

    15/07/2020, 10:43:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Nếu người chở người khác đi không biết việc chở người kia để đi gây án hoặc mức độ thiệt hại hay gây thương tích chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này, người chở sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không bị khởi tố.

    Nếu người chở biết việc chở người kia là để họ thực hiện hành vi gây án mà vẫn tham gia và mức độ thương tích hoặc thiệt hại của người bị hại đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này, người chở có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với vai trò là người giúp sức trong vụ đồng phạm.

  • Xem thêm     

    14/07/2020, 06:01:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ Khoản 5 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định,  thời hạn điều tra được tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận hồ sơ vụ án cho đến hết thời hạn điều tra vụ án theo quy định của pháp luật.

    Nếu vụ án có tính chất phức tạp, cần thiết phải gia hạn để điều tra thì cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra trong thời gian chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra. Theo đó, khoản 2 Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thời gian được phép gia hạn căn cứ vào tính chất của các vụ án.

    Trường hợp khởi tố vụ án hình sự rất nghiêm trọng vào ngày 01/2, như vậy thời hạn điều tra hết vào ngày 01/6. Vậy khi gia hạn lần 1 sẽ bắt đầu vào ngày 01/6 như quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    14/07/2020, 05:37:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Khi thực hiện hành vi mua bán hàng hóa thì giữa bên mua và bên bán đã xác lập một hợp đồng mua bán. Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán. Như vậy, hình thức trả tiền trước và nhận hàng sau là do các bên thỏa thuận trong quá trình xác lập giao dịch. Việc bên bán không giao hàng cho bên mua là vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận.

    Căn cứ khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015, người bán hàng phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người mua. Trường hợp người mua đã thanh toán tiền, người bán có nghĩa vụ hoàn trả tiền và phải bồi thường thiệt hại khi người mua chứng minh được việc không giao hàng gây thiệt hại cho người mua. Khi bên bán không giao hàng theo thỏa thuận, người mua hoàn toàn có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu giải quyết.

    Căn cứ các quy định của luật và thỏa thuận mua bán giữa các bên, trường hợp bên bán đã nhận tiền nhưng không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo đúng hạn được xác định là vi phạm nghĩa vụ. Theo đó, bên bán phải chịu trách nhiệm dân sự đôi với bên có quyền: tiếp tục thực hiện nghĩa giao hàng hóa hoặc trả tiền và bồi thường thiệt hại (nếu có).

    Trong trường hợp trên, bản chất của hành vi mua bán hàng là giao dịch dân sự nên khi bên bán không thực hiện đúng thỏa thuận thì bạn cũng có thể khởi kiện ra tòa án yêu cầu giải quyết.

    Vậy, theo Điều 186 BLTTDS 2015 thì bạn có quyền gửi đơn tới TAND quận, huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc nơi đóng trụ sở (bị đơn là tổ chức) để yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình nếu các bên không tự thỏa thuận hoặc bị đơn cố tình trốn tránh.

    Người bán hoàn toàn có thể bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có thủ đoạn gian dối như không có sản phẩm nhưng vẫn quảng cáo để bạn đặt mua hàng và bạn đã chuyển tiền nhưng không nhận được hàng từ người bán. Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hơn nữa, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1-5 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Tuy nhiên, việc kết tội người này còn tùy thuộc vào mục đích phạm tội xác minh trong quá trình điều tra. Bạn có thể gửi đơn tố giác hoặc tố giác trực tiếp sự việc đến Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Để giải quyết một cách nhanh nhất bạn nên tố giác đến Cơ quan điều tra cấp quận, huyện để được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Sau khi tiếp nhận sự việc cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra xác minh và bảo vệ quyền lợi cho bạn.

  • Xem thêm     

    11/07/2020, 03:22:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại đối với một số tội phạm. Cụ thể:

    “Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

    1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

    Như vậy, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì không thuộc một trong các tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bên bị hại. Do đó, nếu  xác định được  bạn có thủ đoạn gian dối để nhận được số tiền 70 triệu của bên bị hại với mục đích chiếm đoạt số tiền này thì cơ quan có thẩm quyền vẫn khởi tố bố bạn với tội danh ở trên mà  không phụ thuộc vào việc bạn đã bồi thường và người bị hại đã rút đơn khởi kiện.

    Việc bạn tự nguyện trả tiền, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra thì tình tiết này được xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 hiện hành.

  • Xem thêm     

    11/07/2020, 11:28:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Gia đình dì bạn phải gửi đơn trình báo hoặc tố giác đến cơ quan công an có thẩm quyền thì cơ quan công an sẽ giải quyết điều tra sự việc của dì bạn, từ đó họ mới có thể xác định lỗi của những người làm sai quy tắc an toàn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

  • Xem thêm     

    11/07/2020, 10:51:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo Điều 295 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người như sau:

    “1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

    Ngoài mức phạt tù như trên, thì người bị chết còn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm dân sự đối với người có lỗi gây ra tai nạn lao động

    Do đó, có thể xác định lỗi của những người quản lý, công nhân nếu họ thiếu trách nhiệm, làm ẩu, sai quy tắc an toàn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng sẽ được cơ quan công an có thẩm quyền. Việc khởi tố không phụ thuộc phía người bị hại có đơn tố cáo hay không. Như vậy, sau khi dì bạn gửi đơn trình báo hoặc tố giác đến cơ quan công an có thẩm quyền thì cơ quan công an sẽ giải quyết điều tra sự việc của dì bạn về các hành vi tội phạm như đã nêu.

25 Trang «<2345678>»