Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

25 Trang <1234567>»
  • Xem thêm     

    10/11/2020, 11:17:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo thông tin mà bạn cung cấp thì gây tai nạn với học sinh cấp 1 và em đó bị dập gan. Tuy nhiên, trong phần thông tin bạn chưa nêu rõ kết luận của cơ quan điều tra về mức độ lỗi của các bên. Theo đó, nếu việc gây tai nạn giao thông là do lỗi của người đâm (do bạn gây nên) thì gia đình người bị tai nạn có quyền yêu cầu gia đình bên bạn là bên gây thiệt hại bồi thường. Cụ thể, mức bồi thường khi gây thiệt hại đến sức khỏe của người khác như sau:

    Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (Bộ luật dân sự 2015)

    1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

    Như vậy, theo quy định trên thì người bị nạn có quyền yêu cầu bên bạn gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe; phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút; bồi thường thiệt hại về tinh thần...Trong trường hợp bạn là bên gây thiệt hại không bồi thường hoặc đưa ra mức bồi thường không thỏa đáng thì gia đình bị thiệt hại có quyền làm đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân quận, huyện nơi bên gây thiệt hại đang cư trú để yêu cầu giải quyết.

  • Xem thêm     

    05/11/2020, 04:55:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Đối với trường hợp của bạn thì Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định. Theo đó, bạn có thể kháng cáo bản án theo quy định. Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo.

    Như vậy, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên bản án sơ thẩm, bạn cần gửi đơn kháng cáo đến Tòa án để được xét xử phúc thẩm.

    Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được quy định tại Điều 346 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau.

    1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

    2. Trong thời hạn 45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định:

    a) Đình chỉ xét xử phúc thẩm;

    b) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

    3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm.

    4. Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.

    Như vậy việc cơ quan Tòa án đã nhận đơn kháng cáo của bạn hơn 3 tháng mà chưa có quyết định thụ lý vụ án hình sự của Tòa cấp phúc thẩm là chưa phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, bạn có thể làm đơn đề nghị hoặc khiếu nại đến Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm để được giải quyết theo quy định.

  • Xem thêm     

    28/10/2020, 08:42:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội đánh bạcnhư sau:

    “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”.

    Đánh bạc online thông thường và thu về tiền ảo thì không phải đánh bạc trái phép. Tuy nhiên, hành vi đánh bạc online rồi đổi từ tiền ảo sang tiền thật (bất kể thông qua trả tiền trực tiếp giữa các bên hay trả bằng thẻ điện thoại, bởi thẻ điện thoại được tính là hiện vật có thể quy đổi ra giá trị), thì lại là hành vi đánh bạc trái phép. Do đó, nếu số tiền hoặc hiện vật dùng để trao đổi (ở đây là thẻ điện thoại) có giá trị từ 05 triệu đồng hoặc nếu người chơi từng bị kết án về tội đánh bạc hay tội tổ chức đánh bạc thì người chơi đó vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội đánh bạc. Nếu giá trị nhỏ hơn 05 triệu đồng, với hành vi đánh bạc online và đổi ra tiền thật, bạn có thể bị xử phạt hành chính từ 1.000.000 đến 2.000.000 đồng (căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP).

  • Xem thêm     

    24/10/2020, 04:58:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Chúng ta có thể hiểu có “tiền án” là do phát sinh trách nhiệm hình sự, việc một người trước đây đã bị tòa án ra quyết định kết án, thi hành hình phạt và chưa được xóa án tích.

    Có “tiền sự” là do phát sinh trách nhiệm hành chính, việc một người trước đây đã bị kỷ luật, xử phạt hành chính do bị vi phạm pháp luật, có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đến mức xử lí hình sự, chưa được xóa kỷ luật, chưa được xóa việc xử phạt hành chính.

    Việc có tiền án, tiền sự được ví như một vết đen trên hồ sơ lí lịch cá nhân, có thể ảnh hưởng xấu đến uy tín, gia đình và các mối quan hệ xã hội hoặc một số công việc đòi hỏi phải có phẩm chất cá nhân trong sạch. Vậy nếu từng bị phạt hành chính do vi phạm luật giao thông như vượt đèn đỏ, gây gổ, đánh bạc,… thì có phải là tiền án, tiền sự hay không?

    Từ những định nghĩa phía trên thì có thể thấy rằng:

    Thứ nhất, việc bạn bị xử phạt hành chính sẽ không được xem là có tiền án vì không bị chịu trách nhiệm hình sự.

    Thứ hai, việc xử phạt hành chính được coi là có tiền sự khi mà thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng phải có dấu hiệu tội phạm. Như vậy vi phạm về việc sử dụng trái phép chất ma túy thường thì không thể coi là “có dấu hiệu tội phạm” được nên bạn hãy yên tâm nhé.

    Để biết bạn có tiền sự hay không nếu bạn chấp hành xong quyết định hình phạt hành chính và không tái phạm trong vòng 1 năm thì bạn chắc chắn không có tiền sự. Cụ thể nếu thỏa mãn các yếu tố theo Điều 7 Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính và cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

    Để chắc chắn hơn, bạn có thể xin giấy xác nhận không tiền án tiền sự. Việc xin giấy xác nhận không tiền án tiền sự bằng việc xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, bạn nộp đơn tại Sở Tư pháp nơi thường trú.

  • Xem thêm     

    13/10/2020, 09:59:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

    “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

    a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

    …”

    Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì người tham gia giao thông mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông gây thiệt hại thuộc các trường hợp quy định tại Điều 260 đã nêu trên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Với những thông tin bạn cung cấp, chúng tôi chưa xác định được bạn có lỗi gây ra thiệt hại trong trường hợp này hay không. Do đó, nếu bạn có lỗi trong quá trình điều khiển phương tiện giao thông và đây là lỗi trực tiếp dẫn đến thiệt hại trong trường hợp này thì bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

    Trong trường hợp này nếu hình phạt của bạn không đến 03 năm tù và bạn đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP thì bạn sẽ được xem xét cho hưởng án treo.

    Do bạn cung cấp thông tin chưa cụ thể xác định lỗi của bạn trong trường hợp này là như thế nào do đó chưa thể xác định bạn có bị xử phạt hành chính hay không và mức phạt cụ thể.

  • Xem thêm     

    13/10/2020, 09:52:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Không vấn đề gì

  • Xem thêm     

    13/10/2020, 09:51:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo thông tin mà bạn cung cấp thì bạn đã bị người khác lợi dụng thông tin cá nhân để thực hiện những hành vi trên mà bạn không hề hay biết. Hiện nay, do pháp luật quy định về trình tự, thủ tục các dịch vụ vay tiền khá thông thoáng, điều này tạo sự thuận lợi cho những người có nhu cầu vay tiền nhưng cũng là kẽ hở để tội phạm lợi dụng, thực hiện hành vi trái pháp luật. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể thực hiện các biện pháp như:

    - Gửi Văn bản thông báo tới tổ chức có dịch vụ và trình bày rõ ràng sự việc, yêu cầu cơ quan thuế có biện pháp chấm dứt hoạt động thông tin của bạn đã đăng ký theo số chứng minh nhân dân của bạn.

    - Gửi Đơn tố cáo tới cơ quan công an để làm rõ hành vi của những người đã sử dụng thông tin cá nhân của bạn vào mục đích bất hợp pháp.

  • Xem thêm     

    28/09/2020, 10:12:25 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tội tổ chức đánh bạc được quy định tại điều 322, Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

    “Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

    1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

    b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

    c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

    d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

    đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.”

    Như vậy, tội tổ chức đánh bạc thông qua hành vi dưới các hình thức khác nhau như qua mạng trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm tới trật tự công cộng, cụ thể như: tạo điều kiện cho nhiều người sát phạt nhau về kinh tế (với mục đích được thua bằng tiền hoặc hiện vật) ….

    Đối chiếu theo quy định nêu trên thì nếu như những người làm đại lí cấp 1 và cấp 2 của những app game cờ bạc online trên mạng thì những người đó có thể bị truy cứu về cùng tội danh tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với họ trong vai trò là đồng phạm (nếu những người đó biết rõ làm đại lí cấp 1 và cấp 2 của những app game cờ bạc online trên mạng để đánh bạc trái phép và có tham gia vận hành, thu tiền,...). Mức hình phạt bạn có thể tham khảo quy định nêu trên.

  • Xem thêm     

    23/09/2020, 09:19:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

    c) Phạm tội 02 lần trở lên;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Làm chết 02 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

    Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp thì hành vi cố ý gây thương tích của bạn đã đủ yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo khoản 2 điều luật ở trên.

  • Xem thêm     

    07/09/2020, 05:03:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Việc khám nghiệm này được ghi nhận tại điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Theo đó, việc khám nghiệm tử thi do điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến. Cụ thể:

    Điều 151. Khám nghiệm tử thi

    Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến.

    Trong trường hợp cần phải khai quật tử thi thì phải có quyết định của Cơ quan điều tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân biết trước khi tiến hành. Việc khai quật tử thi phải có bác sỹ pháp y tham gia.

    Khi cần thiết có thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến.

    Trong mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.

    Do đó, xét thấy nếu cần thiết, cơ quan điều tra có thể quyết định mổ tử thi kể cả khi gia đình không đồng ý. Tuy nhiên, trong thực tế, các điều tra viên thường mời người thân đến chứng kiến, động viên họ đồng ý để công việc điều tra được suôn sẻ, không gây ra bức xúc cho thân nhân người chết.

    Tuy nhiên, theo quy định trên thì pháp luật không quy định cụ thể người chứng kiến là người nhà nạn nhân mà có thể là người khác không phải người nhà. Sau khi khám nghiệm tử thi có phải thông báo kết quả cho gia đình hay không? Và thời hạn trả kết quả là bao lâu? Điều này phụ thuộc vào yêu cầu của gia đình bạn và việc tiết lộ kết quả khám nghiệm có ảnh hưởng đến quá trình điều tra hay không.Trong trường hợp gia đình bạn có yêu cầu thì cơ quan điều tra là cơ quan trả kết quả cho gia đình.

    Nếu sau khi gia đình bạn nhận được kết quả khám nghiệm tử thi từ phía cơ quan điều tra mà gia đình không đồng ý với kết quả khám nghiệm hoặc có căn cứ chứng minh việc giám định là không chính xác thì gia đình bạn có quyền làm đơn khiếu nại lên thủ trưởng cơ quan điều tra để yêu cầu được xem xét lại..

    Về trách nhiệm của Cơ quan điều tra có nghĩa vụ điều tra, xác minh tai nạn, theo quy định tại khoản 4, Điều 145, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố”. Như vậy gia đình bạn sẽ được Cơ quan điều tra thông báo về kết quả giải quyết vụ việc nêu trên. Trong trường hợp Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án hình sự, họ cũng sẽ có trách nhiệm thông báo với gia đình bạn. Đây là quy định tại khoản 1, Điều 145, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

  • Xem thêm     

    07/09/2020, 04:43:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội đánh bạc như sau:

    “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. >>> Xem thêm: Văn phòng luật sư tư vấn miễn phí

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

    Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 cũng quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.”

    Như vậy, hành vi ghi lô đề sẽ bị coi là hành vi đánh bạc và nếu phát hiện hành vi đánh bạc có đủ yếu tố cấu thành tội “ đánh bạc” nêu trên bạn có thể làm đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an cấp xã phường nơi xảy ra hành vi vi phạm. Bạn cũng có thể tố giác bằng miệng và sẽ được cơ quan công an cấp xã tiếp nhận, lập văn bản và bạn phải kí vào đó. Ngoài ra bạn có thể cung cấp cho cơ quan chức năng các bằng chứng vi phạm pháp luật như hình ảnh, video… để cơ quan có thẩm quyền xác mình, điều tra và xử lý theo quy định chứ không phải thuê thám tử tư lấy bằng chứng

  • Xem thêm     

    06/09/2020, 12:28:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Nếu bạn là người thành niên có hành vi sờ, bóp, hôn vào những bộ phận, vùng nhạy cảm, như bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông… trên cơ thể người dưới 16 tuổi; là có thể phạm tội dâm ô đối với trẻ em quy định tại điều 146 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 dưới đây.

    Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

    1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Phạm tội có tổ chức;

    b) Phạm tội 02 lần trở lên;

    c) Đối với 02 người trở lên;

    d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%59;

    e) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

    a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên60;

    b) Làm nạn nhân tự sát.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

    Hành vi sờ, bóp, hôn, đụng chạm vào các bộ phận, vùng nhạy cảm có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp (như qua lớp quần áo…) người dưới 16 tuổi là phạm tội dâm ô. Tuy nhiên, bạn chưa đủ 18 tuổi (mới đủ 16 tuổi) thì chưa thỏa mãn điều kiện của điều luật trên (phải đủ 18 tuổi) nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    06/09/2020, 11:20:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 12 Luật Giám định tư pháp năm 2012, cá nhân khi bị gây thương tích, bị ảnh hưởng về sức khỏe có thể điều  trị tại các cơ sở y tế, tuy nhiên, kết luận giám định xác định về tỷ lệ thương tật chỉ được công nhận khi được thực hiện tại các tổ chức giám định tư pháp công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập sau:

    – Trong lĩnh vực pháp y: Viện pháp y của Bộ y tế, Bộ quốc phòng, Trung tâm giám định pháp y cấp tỉnh hoặc của Viện khoa học hình sự (Bộ công an)

    – Viện pháp y tâm thần trung ương, Trung tâm pháp y tâm thần khu vực

    – Viện khoa học hình sự của Bộ công an, Phòng giám định kỹ thuận hình sự của Bộ Quốc phòng, Công an cấp tỉnh.

    Như vậy, khi một cá nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe do hành vi của người khác gây ra muốn xác định về tỉ lệ thương tật cần phải đến một trong những tổ chức này theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    31/08/2020, 01:08:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Vụ việc của bạn đã được Toà Phúc Thẩm  -  Toà Án Nhân Dân Tối cao tại Hà Nội (Tòa cấp cao) xét xử phúc thẩm và bản án này đã có hiệu lực ngay từ thời điểm tuyên án. Do đó, đối với bản án, quyết định phúc thẩm bạn sẽ không có quyền kháng cáo bởi đó là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật kể từ lúc được tuyên bố.

    Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc bản án, quyết định đã có hiệu lực của pháp luật có điểm không đúng đắn. Vì vậy, để đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác xét xử của tòa án, bảo đảm được việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì những bản án, quyết định có sai lầm, mặc dù đã có hiệu lực pháp luật vẫn phải được kháng nghị để xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

    Theo quy định tại Điều 373 và Điều 400 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bao gồm:

    - Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

    - Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.

    Do thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án hoặc phát hiện ra tình tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự không biết được khi Tòa án giải quyết vụ án nên để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định và nâng cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc kiểm sát, giám đốc việc xét xử thì chỉ có những người có thẩm quyền mới có quyền kháng nghị yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

    Vì vậy, trong trường hợp này, bạn không có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tối cao nữa mà chỉ có quyền phát hiện các tình tiết là căn cứ kháng nghị hoặc những sai lầm, vi phạm pháp luật của tòa án đã giải quyết vụ án sau đó khiếu nại, tố cáo hoặc thông báo cho những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để họ xem xét và quyết định có kháng nghị hay không.

  • Xem thêm     

    30/08/2020, 09:40:39 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp này 4 người có hành vi đánh bạc nhưng nếu chưa đủ căn cứ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt theo nội dung tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

    Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.

    2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:

    a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;

    b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;

    c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;

    d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;

    b) Che giấu việc đánh bạc trái phép.

    4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:

    a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;

    b) Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;

    c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;

    d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.

    5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:

    a) Làm chủ lô, đề;

    b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;

    c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;

    d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.

    Đối chiếu theo quy định trên thì hành vi đánh bạc sẽ bị xử phạt với mức 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng; tổ chức chức đánh bạc 5.000..000 đồng đến 10.000..000 đồng. Bạn có thể tham khảo để xác định mức phạt, theo đó nếu như trong trường hợp này vì không thu lợi nhuận khi mọi người tham gia đánh bạc nhưng đã tạo điều kiện cho họ đánh bạc nên có thể bị xử lý về hành vi tổ chức đánh bạc và chứa chấp cờ bạc và khung hình phạt có thể tham ở trên.

  • Xem thêm     

    24/08/2020, 12:09:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác như sau:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    …”

    Như vậy, nếu tỷ lệ thương tích của bạn trong trường hợp này từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng bên gây thiệt hại thuộc vào các trường hợp quy định tại Khoản 1 ĐIều 134 đã nêu trên thì có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ.

    Nếu tỷ lệ thương tích của bạn dưới 11% và không thuộc vào các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 134 đã nêu trên thì hành vi này của đồng nghiệp bạn sẽ bị xử lý vi phạm hành chính.

    Điểm e Khoản 3 ĐIều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm về trật tự công cộng như sau:

    “3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác; 

    …”

    Như vậy, nếu hành vi của người chú bạn không đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng.

    Do đó, Hành vi đánh bạn của người chú làm tổn hại đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật. Tùy vào tính chất nguy hiểm của hành vi và mức độ thiệt hại gây ra, người thực hiện hành vi này có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đồng thời phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị tổn hại về sức khỏe do hành vi đó gây ra

    Để xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý của người gây thương tích, bạn cần trình báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan điều tra công an cấp xã và cấp huyện tại xảy ra hành vi phạm tội. Nội dung của đơn trình báo, tố giác bao gồm các nội dung cơ bản như: Họ và tên người trình báo, ngày tháng năm sinh, số Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu thường trú, nội dung chi tiết vụ việc. Ngoài ra có thể gửi kèm theo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó cơ quan công an có cơ sở để áp dụng các thủ tục pháp lý cần thiết như điều tra để xác minh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật; trưng cầu giám định tư pháp để xác định mức độ thiệt hại đối với cơ thể do hành vi gây thương tích gây ra. Kết luận giám định là căn cứ quan trọng để đánh giá hành vi cố ý gây thương tích có đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự hay không; đông thời cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

  • Xem thêm     

    21/08/2020, 03:21:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại Khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 này cũng quy định về đương nhiên được xóa án tích như sau:

    Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

    a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

    b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

    c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

    d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

    Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

    Được coi là chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết khác của bản án trong các trường hợp sau đây:

    + Người bị kết án tự mình đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án;

    + Người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, còn các quyết định về tài sản trong bản án hình sự đã có người nộp thay cho người bị kết án (người thân của người bị kết án đã bồi thường thay, đã nộp tiền án phí, tiền phạt… thay cho người bị kết án hoặc người cùng người bị kết án phải liên đới bồi thường đã bồi thường đủ toàn bộ theo quyết định của bản án);

    + Người bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo đã chấp hành xong thời gian thử thách, trong trường hợp đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án (nếu có).

    Trường hợp của bạn bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính từ lâu, không phạm tội mới trong thời hạn quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 nhưng chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung hoặc các quyết định khác trong bản án (án phí hình sự, bồi thường thiệt hại v.v…), căn cứ theo quy định tại Bộ luật hình sự và hướng dẫn thì bạn chưa đủ điều kiện để được xem xét xóa án tích.

  • Xem thêm     

    17/08/2020, 05:17:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Các tội phạm về ma túy chủ yếu liên quan tới các hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy…

     

  • Xem thêm     

    15/08/2020, 09:52:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Bố bạn làm đội trưởng dân phòng nay cũng lâu, lúc đầu bố bạn được lương nhưng trong năm nay bố bạn không nhận được lương nũa vì chú công an khu vực là người phát lương đã chặn tiền lương của bố bạn.

    Nếu như bạn chắc chắn về hành vi của anh công an khu vực ăn chặn lương, phụ cấp hoặc các khoản thu nhập khác của bố bạn thì bốhoặc bạn bạn nên làm đơn tố cáo đến cơ quan công an nơi người công an khu vực đó để bảo vệ quyền lợi của mình. Theo đó, người công an đó có thể bị xử lý theo quy định,

  • Xem thêm     

    15/08/2020, 09:38:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp bạn bị đe dọa như vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như bảo đảm sự an toàn cho chính mình; người bị hại có thể tố cáo hành vi của người gửi tin nhắn đến cơ quan điều tra công an quận/huyện theo Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

    “Điều 144. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

    1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”

    Căn cứ vào tin báo, tố giác tội phạm của bạn, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ. Theo đó, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người có hành vi vi phạm. Nếu hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan điều tra công an quận/huyện có thể ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Khoản 4 Điều 97 Nghị định 174/2013/NĐ-CP:

    “Điều 97. Thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân

    ....

    4. Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Trưởng phòng An ninh chính trị nội bộ, Trưởng phòng An ninh kinh tế, Trưởng phòng An ninh văn hóa, tư tưởng, Trưởng phòng An ninh thông tin có quyền:

    a) Phạt cảnh cáo;

    b) Phạt tiền không vượt quá 40.000.000 đồng; đối với lĩnh vực bưu chính mức phạt tiền không vượt quá 16.000.000 đồng;

    c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;

    d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại Điểm b Khoản này;

    đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, c, đ và k Khoản 1 Điều 28 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

    ....”

    Vậy, để có hướng xử lý đúng đắn và kịp thời, bạn cần phải xem xét hành vi thu thập các thông tin về thân nhân của nạn nhân cũng như hành vi đe dọa của người đe dọa đối với nạn nhân nhằm mục đích gì thì mới xác định được cụ thể trường hợp này có cấu thành tội phạm hình sự hay không?

25 Trang <1234567>»