Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

15 Trang <1234567>»
  • Xem thêm     

    01/01/2021, 09:47:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Không vấn đề gì

  • Xem thêm     

    24/12/2020, 11:20:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Nếu đó là tình trạng yêu đương của các bạn mà không có yếu tố dụ dỗ,... lợi dụng thì cả hai gia đình cần ngồi lại, giáo dục, nói chuyện với cả các bạn về hành vi này. Hiện tại, thực tế cho thấy các bạn trẻ bây giờ biết yêu rất sớm, nhiều khi xảy ra nhiều hậu quả nên yếu tố giáo dục trong gia đình rất quan trọng

  • Xem thêm     

    23/12/2020, 11:30:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Điều 146 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

    “1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    …”

    Tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao có hiệu lực. Trong nghị quyết ghi rõ: Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục,

    Theo Bộ luật hình sự 2015 quy định và nghị quyết ở trên thì đều quy định đối với hành vi một người trên 18 tuổi thực hiện hành vi với người từ 16 tuổi trở xuống. Nếu cả 2 đều dưới 16 và đồng thuận, không có các trường hợp hiếp dâm thì lỗi ở cả 2. Cả 2 lúc này chưa đủ nhận thức, tâm sinh lý vẫn chưa ổn định, ở độ tuổi này rất nhạy cảm, bồng bột, nên không thể quy tội cho 1 trong 2 đối tượng được, càng không thể xử phạt 1 trong 2

    Như vậy, căn cứ theo điều kiện ở trên thì bạn không bị xử lý về hành vi hôn bạn gái mình vì bạn là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, bạn nên có một mối quan hệ lành mạnh, đó là mối quan hệ bạn bè, chứ không phải một mối quan hệ nào khác. Chỉ nên có một mối quan hệ là tình bạn, không thể vượt quá tình bạn nhé.

  • Xem thêm     

    19/12/2020, 03:55:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Pháp luật nghiêm cấm hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho người sử dụng hoặc người chơi trò chơi hoặc tổ chức kinh doanh Game đó đã vi phạm điều khoản và điều lệ của game. Theo đó, bạn có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật có liên quan.

    Như vậy, khi bạn chơi mà có sự nhầm lẫn hoặc bị xâm phạm quyền lợi của mình do lỗi của bên có trò chơi game thì bạn khiếu nại có quyền khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân có Game đó. Tùy theo tính chất, mức độ thiệt hại, bên bị khiếu nại, tố cáo, khởi kiện sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Để có căn cứ xử lý, khi chơi hoặc chuyển khoản nên giữ nguyên hiện trạng và các chứng cứ liên quan để có thể liên hệ người quản lý game cho mình yêu cầu hoàn trả tiền hoặc bồi thường. Nếu phát sinh tranh chấp, bạn cần làm đơn tố cáo kèm chứng cứ liên quan đó cho cơ quan quản lý hoặc cơ quan công an nơi gần nhất để yêu cầu xử lý.

    Theo quy định, trong trường hợp bạn nêu, nếu người chơi thắng sẽ được thưởng điểm và có thể  được đổi ra tiền. Nếu đổi ra tiền là mang tính chất thắng thua cờ bạc có dấu hiệu của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Do đó, nếu bạn chơi với số tiền lớn thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, nếu số tiền ít sẽ bị xử lý hành chính theo quy định.

  • Xem thêm     

    18/12/2020, 09:13:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tại Khoản 3 Điều 4 Thông tư 148/2018/TT-BQP quy định về tiêu chuẩn tuyển quân có quy định:

    - Tiêu chuẩn sức khoẻ:

    + Tuyển chọn những công dân có sức khỏe loại 1, 2, 3 theo quy định của Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng về tiêu chuẩn sức khoẻ thực hiện nghĩa vụ quân sự.

    + Đối với các đơn vị quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều này, thực hiện tuyển chọn bảo đảm các tiêu chuẩn riêng theo quy định của Bộ Quốc phòng.

    + Không gọi nhập ngũ vào Quân đội những công dân có sức khỏe loại 3 có tật khúc xạ về mắt (cận thị 1,5 điop trở lên, viễn thị các mức độ); nghiện ma túy, nhiễm HIV, AIDS.

    Như vậy, theo quy định trên thì nếu trường hợp khi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự mà có kết luận dương tính với ma túy đến mức đã nghiện ma túy thì sẽ thuộc diện không gọi nhập ngũ.

  • Xem thêm     

    16/12/2020, 09:55:30 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp có thể thấy anh A đã đủ các yếu tố cấu thành tội đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

    “1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

    Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Như vậy, bạn có thể gửi đơn tố giác về hành vi phạm tội của người bạn kia đến các cơ quan quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, sau đó, các cơ quan chức năng sẽ có nhiệm vụ điều tra, truy tố, khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

    tùy vào dấu hiệu hành vi và mức độ nguy hiểm của hành vi mà bố của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người hoặc tội hành hạ người khác.

    Như vậy, bạn có thể làm đơn tố giác anh A về tội đe dọa giết người, mọi thủ tục tiếp theo các cơ quan chức năng sẽ có nhiệm vụ điểu tra, xác minh vụ việc, trong đơn tố giác bạn trình bày các hành vi đe dọa như trình bày ở trên một cách đầy đủ, căn cứ vào quy định pháp luật như trên, rõ ràng, không sai sự thật, có bằng chứng để chứng minh khi cần. Bạn có thể viết đơn tố cáo hành vi của anh A với cơ quan chức năng như  và nộp đơn đến cơ quan công an tại địa phương mình để yêu cầu giải quyết.

  • Xem thêm     

    02/12/2020, 04:22:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Bộ Luật hình sự 2015 là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét, quyết định giảm nhẹ hình phạt đối với người phạm tội.

    Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc “tình tiết khác” là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Trong đó, căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các "tình tiết khác" bao gồm:

    - Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:

    - Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

    - Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

    - Người bị hại cũng có lỗi;

    - Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

    - Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

    - Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

    - Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

    Và trong từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    Như vậy đây được xem là điều luật mở nhằm tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử có thể linh hoạt mở lượng khoan hồng cho người phạm tội trong trường hợp luật chưa quy định cụ thể. Xét về bản chất các tình thiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định ở khoản 2 nói chung không phải là các tình thiết giảm nhẹ chủ yếu bởi các tình tiết này không làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Song như đã nêu ở trên xuất phát từ chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước mà người phạm tội là lao động hay hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể được xem là các tình thiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó hoàn toàn có thể hiểu rằng các tình thiết mà bạn đã nêu có thể được xem là tình thiết giảm nhẹ TNHS cho bố bạn.

  • Xem thêm     

    29/11/2020, 08:24:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn, để xác minh giám định dấu vân tay thì có thể tiến hành giám định tại các  Văn phòng giám định tư pháp, Trung tâm giám định tư pháp.

    Dấu vân tay phải nhận thấy bằng mắt thường, dấu vân tay chia làm hai loại là vân nhìn thấy (hay vân nổi) và không nhìn thấy (hay vân chìm). Vân nổi có thể dễ dàng tìm thấy được vì chúng nổi lên trên các bề mặt khi bụi đất, mực, sơn, dầu... mà người có dấu vân tay để lại trên bề mặt.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 10:00:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, đã có hiệu lực từ 1/8/2016. Đây là văn bản mới nhất, thay thế cho các Nghị định số 171/2013/NĐ-CP107/2014/NĐ-CP của Chính Phủ.

    Người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô sử dụng giấy phép lái xe (GPLX) giả sẽ bị phạt tiền lên tới 1,2 triệu đồng.

    Cụ thể, tại Điểm a, Khoản 5, Điều 21 Nghị định 46 quy định Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về Điều kiện của người Điều khiển xe cơ giới Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm: Không có giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô sử dụng GPLX giả sẽ bị phạt tiền lên tới 6 triệu đồng.

    Cụ thể, tại Điểm b, Khoản 7, Điều 21 Nghị định 46 quy định Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về Điều kiện của người Điều khiển xe cơ giới, Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với người Điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm một trong các hành vi: Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Ngoài việc bị phạt tiền, người Điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 21; Điểm b Khoản 7 Điều 21 còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Hành vi “Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa” không cấu thành tội phạm theo quy định tại bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) nên sẽ không bị xử lý hình sự mà chỉ bị xử phạt hành chính.

  • Xem thêm     

    22/11/2020, 09:08:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Cái này bạn mô tả thật khó để hình dung rằng diễn biến vụ TNGT chính xác như thế nào, bạn phải chờ kết luận của cơ quan Cảnh sát giao thông hoặc Cơ quan điều tra để biết khi đó mới có thể tư vấn chính xác được. Hoặc bạn có thể tự tìm hiểu thêm về việc bạn lái xe qua như thế nào, người bên kia thế nào, nếu khu vực đường đó xuất phát từ người đi xe theo hướng ngược chiều với xe bạn đã đi không đúng phần đường, đâm vào phía bạn nên bạn đã tránh sang trái đường. Do vậy, khi va chạm xảy ra thì cả hai xe đều ở giữa đường, tại vị trí nào đều phải chờ cảnh sát giao thông giải quyết và kết luận 

  • Xem thêm     

    16/11/2020, 04:56:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định về tội giao cấu và thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

    Đối với trường hợp của bạn, nếu người bạn của bạn là người đã đủ tuổi thành niên, giao cấu với bạn gái là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tuy mang tính chất tự nguyện nhưng hành vi của người bạn đó vẫn có thể bị truy tố theo quy định tại khoản 1, điều 145, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

    “Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

    1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

    Tuy nhiên, Bộ luật hình sự  có quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tức là theo thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    sự việc đã xảy ra cách đây 6 năm

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự 2015 (khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự 1999) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    - Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.

    Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (điểm a, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

    - Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

    Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù (điểm b, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

    - Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

    Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù (điểm c, khoản 2 Điều 1, Bộ luật hình sự 2017).

    Theo đó việc xác định tội phạm thuộc loại tội phạm nào trong bốn loại trên phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt được các nhà làm luật quy định tương ứng với tội danh ấy trong Bộ luật hình sự. Như đã phân tích, với mức án cao nhất của khung hình phạt cao nhất đối với người bạn của bạn là 5 năm tù  mà sự việc đã xảy ra gần 6 năm thì căn cứ điều luật ở trên thì người bạn đó phạm phải tội ít nghiêm trọng và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đã hết thời hiệu.

  • Xem thêm     

    16/11/2020, 11:17:42 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tội đánh bạc:

    “Điều 321. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

    Nếu bạn đánh bạc được thua bằng tiền với giá trị từ 05 triệu đồng trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Tùy vào giá trị tài sản dùng vào việc đánh bạc mà xác định điều khoản áp dụng: nếu trong khoảng từ 5 triệu đến 50 triệu thì thuộc khoản 1 điều này với khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm; giá trị tài sản từ 50 triệu trở lên hoặc thuộc các trường hợp khác tại điểm a,c,d khoản 2 điều này thì khung hình phạt là từ ba năm đến bảy năm tù.

    Trách nhiệm hành chính

    Nếu không thuộc trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trên thì bạn sẽ bị xử phạt vi pham hành chính theo khoản điều 26 Nghị định 167/2013 như sau: “Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.

    2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:

    a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;

    b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;

    c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;

    d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;

    b) Che giấu việc đánh bạc trái phép.

    4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:

    a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;

    b) Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;

    c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;

    d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.

    5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:

    a) Làm chủ lô, đề;

    b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;

    c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;

    d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.

    6. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có đối với hành vi quy định tại Khoản 1; Khoản 2; Điểm a Khoản 3; Điểm b, c, d Khoản 4 và Khoản 5 Điều này.

    ....”

    Tùy vào vai trò trong khi tham gia đánh bạc mà có thể bị xử lý theo các khoản 1,2,3,4,5 điều 26 và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 6 điều này.

    Như vậy, tùy vào giá trị tài sản sử dụng vào việc đánh bạc để xác định trách nhiệm. Nếu giá trị tài sản từ 05 triệu trở lên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 321 Bộ luật hình sự, nếu dưới 05 triệu thì có thể bị xử phạt hành chính theo điều 26 nghị định 167/2013.

  • Xem thêm     

    14/11/2020, 09:43:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn có thể rất phức tạp nên bạn vui lòng liên hệ trực tiếp để luật sư có cơ sở thực hiện việc tư vấn cho bạn đảm bảo tính phù hợp giữa nội dung tư vấn và nội dung vụ việc cũng như các quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    14/11/2020, 09:14:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) được quy định như sau:

    “Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

    2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

    Như vậy tuổi chịu TNHS ở nước ta là người nào đủ 14 tuổi trở lên, còn những người nào dưới 14 tuổi thì không phải chịu TNHS về bất kì tội nào.

    Việc trẻ con đánh nhau khi con bạn sinh 18/12/2006 đánh bạn kia sinh ngày 01/06/2005 gây thương tích thì bản thân những đứa trẻ đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, con bạn không bị khởi tố hình sự. Trước mắt, gia đình bạn hãy tập trung cho việc cứu chữa nạn nhân và thương lượng với gia đình nạn nhân để giải quyết sự việc.

    Về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại): người đại diện của người gây thương tích (thông thường là bố mẹ) sẽ phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe của bên kia bị xâm phạm. Mức bồi thường căn cứ trên các thiệt hại thực tế và mức độ lỗi của hai bên.

    Tuy nhiên, với những vụ việc như thế này, thiết nghĩ rằng gia đình bạn và gia đình kia nên thương lượng giải quyết để những đứa trẻ thấy được lỗi lầm của mình, bởi tính chất vụ việc chưa đến mức cần thiết phải đưa ra tòa.

    Nếu không thương lượng được thì khi kiện đòi bồi thường thiệt hại, bạn nên lưu ý: người khởi kiện (nguyên đơn) phải là người đại diện của em bạn và người bị kiện (bị đơn) phải là người đại điện của bạn kia (thông thường là cha mẹ).

  • Xem thêm     

    13/11/2020, 02:51:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017  định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

     Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ96.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    ....

    Theo như những tình tiết mà bạn cung cấp, thì trào lưu like và follow Tik Tok qua app Iclick đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn và cũng lừa hơn ngàn người tham gia và bây giờ mọi người mất trắng. Bạn có thể tố giác hành vi phạm tội này của các app này tới Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau đó, các cơ quan chức năng sẽ điều tra về hành vi phạm tội của công ty, ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,...và các quyết định tố tụng khác.

    Mặt khác, bạn đã bị lừa đảo với số tiền nhất định thì bạn có thể yêu cầu trong vụ án hình sự là công ty hoặc người quản lý app phải trả lại cho bạn số tiền đã lừa bạn.

  • Xem thêm     

    05/11/2020, 11:02:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Căn cứ vào các tình tiết nội dung mà bạn đưa ra thì cho thấy hành vi chồng bạn dùng súng bắn là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm hại đến quyền sống của họ. Tuy nhiên, nó chưa gây ra cái chết cho nạn nhân nên theo Điều 15 BLHS thì đây là trường hợp giết người chưa đạt. Nếu mục đích nổ súng chỉ để thị uy và có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm theo Điều 133 Bộ Luật hình sự năm 2015 về Tội đe dọa giết người. Tuy nhiên các thông tin bạn đưa ra không rõ ràng nên chúng tôi chỉ tạm tư vấn như vậy

    Mặt khác, chồng bạn không phải là người trong lực lượng vũ trang và không được phép sử dụng súng nhưng đã tự ý có hành vi sử dụng súng để bắn vào người khác. Xét cấu  thành tội phạm của tội sử  dụng vũ khí trái phép theo Điều 304 BLHS cho thấy: hành vi sử dụng vũ khí quân dụng trái phép là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý xâm phạm các quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan tới vũ khí quân

    Trong tình huống này, hành vi của chồng bạn là dùng súng để bắn người khác 4 phát là hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Nó đã xâm phạm trực tiếp những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan tới vũ khí quân dụng (Điều 4 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 của Chính phủ). Hành vi này được chồng bạn thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Nó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là làm cho anh K bị thương và làm chết chị H.

    Do đó, chồng bạn phạm tội giết người chưa đạt và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo quy định của BLHS 2015.

    Việc chồng bạn hiện tại chưa xử đang tạm giam được gần 3 tháng trước đây đã có một tiền án nhưng chưa được xóa án tích thì được coi là người có nhân thân xấu và là một tình tiết tăng nặng khi xét xử. ngoài ra, chồng bạn ngoài sử dụng súng ra thì bị chém thương tật 21% thì những người chém chồng bạn đã có hành vi cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

  • Xem thêm     

    03/11/2020, 11:27:20 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015; Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội đánh bạc

    “Điều 321. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

    Theo quy định về tội đánh bạc tại BLHS năm 2015 quy định đánh bạc dưới bất kì hình thức nào được thua bằng hiện vật có giá trị từ 5 triệu trở lên hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, bị kết án về tội này hoặc tội gá bạc hoặc tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà có hành vi vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Tuy nhiên, bạn đánh bạc được thua bằng hiện vật có giá trị từ 5 triệu trở xuống sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tư, an toàn xã hội; phòng, chống, tệ nạn xã hội; phòng cháy chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

  • Xem thêm     

    03/11/2020, 10:16:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Theo như thông tin bạn cung cấp thì bạn bị người khác dùng mũ bảo hiểm đánh tới tấp nhiều cái vào đầu và mặt được CA đưa đi giám định thương tích là 10%. Hành vi này sẽ bị khởi tố về hình sự nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội này.

    Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc hây tổn hại cho sức khỏe của người khác tùy theo tính chất mức độ mà áp dụng các mức phạt khác nhau.

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;...”

    Theo quy định của pháp luật, về cơ bản, thì hành vi dùng mũ bảo hiểm được coi là hung  khí nguy hiểm đánh bạn cố ý gây thương tích sẽ bị khởi tố hình sự theo khoản 1 Điều 134 nếu mức độ thương tích từ 11% đến 30%. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi gây thương tích mà có một trong các các điều kiện được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì dù mức độ thương tích dưới 11% vẫn có thể bị khởi tố hình sự.

    Như vậy, trong trường hợp này nếu người gây thương tích cho bạn có những dấu hiệu kể trên thì rất có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134. Hành vi này có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

  • Xem thêm     

    01/11/2020, 09:20:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Trong trường hợp của bạn, nếu bước đầu cơ quan cảnh sát điều tra (CQ CSĐT) xác minh bạn là người gây thương tích bằng việc đánh X bỏ chạy được tầm 4 bước rồi té ngã mà bị gãy tay thì họ sẽ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong quá trình CQ CSĐT lấy lời khai bạn cứ trình bày đúng sự thật. Việc chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của CQ CSĐT. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đưa ra bằng chứng mình vô tội. Nếu bạn xô X té ngã dẫn đến thương tích trên 11% thì hành vi của bạn vi phạm điều 134 Bộ luật hình sự 2015.

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    ...

     

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    …”

    Tuy nhiên, xét về hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả thì thấy bạn không trực tiếp gây ra thương tích đối với X nên không phạm tội Cố ý gây thương tích. Bạn có thể bị điều tra về một tội phạm khác (nếu có). Từ đó tòa phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra lại.

    Việc bạn đánh X làm X sợ chạy bị té ngã có thể có hành vi về tội “Vô ý gây thương tích” quy định tại khoản Điều 138 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

    Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

     

    “1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm….”

    Như vậy, nếu bạn vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì mới áp dụng hình phạt theo quy định trên của Bộ luật Hình sự.

  • Xem thêm     

    20/09/2020, 11:28:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2178)
    Số điểm: 12435
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1602 lần
    Lawyer

    Tại khoản 3 Điều 6 Luật trẻ em năm 2016 quy định:

    “Điều 6. Các hành vi bị nghiêm cấm

    ...3. Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em.”

    Trong đó, các hành vi xâm hại tình dục trẻ em được nêu cụ thể tại Điều 13 Nghị định số 56/2017/NĐ-CP như sau:

    Điều 13. Trẻ em bị xâm hại tình dục

    1. Trẻ em bị hiếp dâm.

    2. Trẻ em bị cưỡng dâm.

    3. Trẻ em bị giao cấu.

    4. Trẻ em bị dâm ô.

    5. Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.

    Theo đó, các hành vi xâm hại tình dục trẻ em bao gồm: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em, sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Tương ứng với các hành vi quy định tại Điều 142, 144, 145, 146 và 147 BLHS.

    Theo bạn trình bày bác họ bạn say rượu đã có hành vi xàm sỡ cháu gái họ của mình, sịt nước vào người con bé (không gây thương tích, tụt quàn cháu bé và chưa làm gì hết). Như vậy, hành vi của người bác kia có dấu hiệu “dâm ô” với cháu gái họ của mình.

    Theo quy định của Bộ luật Hình sự, hành vi dâm ô đối với trẻ em là hành vi của người đã thành niên, dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu đối với nạn nhân.

    Hành vi dâm ô khi đủ yếu tố cấu thành thì sẽ bị xem xét xử lý theo Điều 146 Bộ luật Hình sự.

    Theo đó, người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội 2 lần trở lên; Đối với 2 người trở lên; Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; Tái phạm nguy hiểm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm - 12 năm: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; Làm nạn nhân tự sát. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm - 5 năm.

15 Trang <1234567>»