Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

52 Trang «<24252627282930>»
  • Xem thêm     

    11/11/2012, 09:51:05 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi được Bộ luật tố tụng dân sự quy định như sau:

                - Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau để giải quyết vụ án (thuận tình ly hôn) thì Tòa án sẽ ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và việc giao quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và hiệu lực của quyết định này được pháp luật quy định như sau:

    "Điều 187. Ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự

    1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.

    Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

    2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

    3. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản.

    Điều 188. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự

    1. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

    2. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.".

              - Trong trường hợp các đương sự không thống nhất được với nhau để giải quyết vụ án thì Tòa án sẽ mở phiên tòa để xét xử và việc tống đạt bản án và quyền kháng cáo được quy định như sau:

    "Điều 241. Cấp trích lục bản án, bản án

    1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án.

    2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.

    Điều 245. Thời hạn kháng cáo

    1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

    2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

    3. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì."

  • Xem thêm     

    07/11/2012, 08:04:38 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            Nếu thửa đất mà gia đình bạn vừa nhận chuyển nhượng thuộc địa bàn Hà Nội thì bạn không thể "gộp hai sổ làm 1 được" bởi diện tích đất đó là hai loại đất khác nhau, trong đó có một phần là đất nông nghiệp chưa được cấp GCN QSD đất. Hơn nữa, 24 m2 đất tại Hà Nội cũng không đủ diện tích để xem xét cấp GCN QSD đất, không đủ điều kiện để tách thửa, hợp thửa theo quy định tại Quyết định số19/2012/NQQ-UBND ngày 08/8/2012 của UBND thành phố Hà Nội.

            Bạn có thể yêu cầu chấm dứt hợp đồng và đòi lại tiền, nếu không phải chấp nhận sử dụng như vậy mà không được đảm bảo về mặt pháp lý. Bạn tham khảo quy định tại Quyết định số19/2012/QĐ-UBND ngày 08/8/2012 của UBND thành phố Hà Nội để biết thêm chi tiết.

  • Xem thêm     

    01/11/2012, 09:21:05 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Theo quy định của pháp luật thì phần di sản của bà nội bạn sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS. Trường hợp cha bạn chết trước bà nội bạn nên 6 anh chị em bạn được thừa kế thế vị (nhận phần tài sản đáng lẽ ra cha bạn được hưởng khi còn sống) theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự: Di sản của bà nội bạn có thể chia thành ba phần: Mỗi chú một phần, còn 1/3 chia đều cho 6 anh, chị em của bạn (kế vị theo Điều 677 BLDS).

    2. Bạn chỉ được toàn quyền sở hữu nhà đất đó nếu hai chú bạn và tất cả các anh, chị em ruột của bạn đồng ý cho bạn được toàn quyền hưởng thửa kế. Thủ tục sang tên thực hiện theo thủ tục khai nhận di sản thừa kế sau đây:

     

            Hồ sơ pháp lý các bên khai nhận di sản thừa kế

    1.CMND hoặc hộ chiếu (bản chính kèm bản sao) của từng người

    2. Hộ khẩu (bản chính kèm bản sao)

    3.Giấy đăng ký kết hôn, giấy xác nhận hôn nhân thực tế hoặc xác nhận độc thân (bản chính kèm bản sao)

    4. Hợp đồng ủy quyền (bản chính kèm bản sao), giấy ủy quyền (nếu xác lập giao dịch thông qua người đại diện)

    5.Giấy khai sinh, Giấy xác nhận con nuôi; bản án, sơ yếu lý lịch, các giấy tờ khác (bản chính kèm bản sao) chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người thừa kế

    Hồ sơ pháp lý của người đề lại di sản thừa kế

    1. Giấy chứng tử (bản chính kèm bản sao) của người để lại di sản, giấy báo tử, bản án tuyên bố đã chết (bản chính kèm bản sao).
    2. Giấy đăng ký kết hôn, giấy xác nhận hôn nhân thực tế hoặc xác nhận độc thân (bản chính kèm bản sao)
    3. Di chúc (nếu có)

    Giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản là di sản thừa kế:

    1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất ở do UBND cấp, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình trên đất, các loại giấy tờ khác về nhà ở (bản chính kèm bản sao); Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa - hợp thức hóa do UBND quận/huyện cấp có xác nhận của Phòng thuế trước bạ và thổ trạch TP. HCM; Văn tự bán nhà được UBND chứng nhận (nếu có); Biên lai thu thuế nhà đất (nếu có)
    2. Giấy phép xây dựng (nếu có)
    3. Biên bản kiểm tra công trrình hoàn thành (nếu có)
    4. Bản vẽ do cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thực hiện, đã được UBND hoặc Phòng Tài nguyên và môi trường xác nhận kiểm tra nội nghiệp, quy hoạch (nếu có)/.
    5. Giấy tờ về tài sản khác (Sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, giấy xác nhận của ngân hàng mở tài khoản, giấy đăng ký xe ô tô, cổ phiếu, ...)
  • Xem thêm     

    01/11/2012, 11:44:44 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, VPLS Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

           1 (2). Theo quy định của pháp luật thì "thừa kế" là việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ người chủ sở hữu tài sản sang người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của họ sau khi người chủ sở hữu tài sản qua đời. Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có di sản chết).

    Theo thông tin bạn nêu thì bà nội bạn còn sống nên chưa phát sinh quyền thừa kế, còn ông bạn đã chết từ năm 1999, đến nay (năm 2012) đã hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với di sản của ông nội bạn nên chú bạn không có cơ sở để đòi chia thừa kế.

          3. Nếu nguồn gốc thửa đất đó là Nhà nước chia cho hai ông bà bạn (không chia cho các con) thì GCN QSD đất phải đứng tên ông bạn và bà bạn mới đúng pháp luật, không phải cấp cho HỘ GIA ĐÌNH như thông tin bạn nêu. Nếu thửa đất đó có nguồn gốc trước đây cấp cho hộ gia đình, trong đó có có chú bạn hoặc có nguồn gốc là đất khai hoang và cấp GCN QSD đất cho hộ gia đình ông bạn trong đó có chú bạn thì chú bạn mới có thể được chia tài sản chung (của hộ gia đình).

          4. Việc chia đất giãn dân là chính sách của nhà nước đối với việc giao đất, chia đất... người được cấp đất giãn dân không làm mất quyền thừa kế di sản. Do vậy, nếu ông bà bạn qua đời không để lại di chúc thì chú đó vẫn được hưởng thừa kế của ông, bà bạn...

  • Xem thêm     

    30/10/2012, 09:47:05 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Hiện nay GCN QSD đất vẫn đứng tên bố mẹ bạn nên việc định đoạt (bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, đặt cọc, thừa kế...) nhà đất đó do bố bạn và mẹ bạn quyết định. Việc cha mẹ bạn ly hôn nhưng chưa giải quyết về tài sản thì tài sản đó vẫn là tài sản chung. Việc cha mẹ bạn chuyển hộ khẩu khỏi căn nhà đó không làm mất quyền sở hữu tài sản của người chuyển hộ khẩu đi...

           Nay nếu mẹ bạn không đồng ý cho anh em bạn nhà đất đó thì anh em bạn không được sở hữu. Nếu sau này mẹ bạn qua đời mà nhà đất đó vẫn đứng tên mẹ bạn và mẹ bạn không để lại di chúc thì anh em bạn mới được thừa kế theo quy định pháp luật.

          Nếu cha mẹ bạn không thống nhất được việc phân chia thửa đất đó (chia làm 2 phần, cha mẹ bạn mỗi người một phần) thì một trong hai người có quyền khởi kiện tới Tòa án để yêu cầu chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn. Tòa án sẽ thụ lý và chia tài sản chung vợ chồng sau khi ly hôn theo quy định pháp luật....

  • Xem thêm     

    27/10/2012, 08:23:58 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Nếu văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế năm 1997 là hợp pháp (tự nguyện và có công chứng) thì các anh, chị em bạn chỉ được đăng ký quyền sử dụng đất đối với phần đất được phân chia theo văn bản đó.

           Nếu các anh bạn làm sổ với diện tích đất lớn hơn diện tích đất mà anh em đã thỏa thuận phân chia gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bạn thì bạn có thể khởi kiện để tranh chấp quyền sử dụng đất theo biên bản phân chia thừa kế đó hoặc yêu cầu UBND xem xét hủy bỏ GCN QSD đất đã cấp trái pháp luật.

  • Xem thêm     

    26/10/2012, 03:44:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    - Trước tiên bạn cần xem lại nguồn gốc nhà đất đó. Nếu nhà đất là tài sản riêng của bà (nhà đất của bà mua sau khi ông chết hoặc có căn cứ khác chứng minh là tài sản riêng của bà...) thì bà bạn mới có quyền tặng cho, sang tên nhà đất đó cho mẹ bạn;

    - Nếu nhà đất đó là tài sản chung của ông bà thì bà chỉ được định đoạt 1/2 giá trị nhà đất đó thông qua các hình thức như: Chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp, góp vốn.... Còn lại 1/2 nhà đất là di sản thừa kế của ông bạn để lại, đã hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế.

    - Đến khi bà bạn qua đời mà không để lại di chúc (di sản vẫn còn) thì các thừa kế của bà bạn (các con của bà...) mới có thể khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của bà bạn. Phần di sản của ông bạn đã hết thời hiệu khởi kiện nên các cậu bạn chỉ có thể kiện nếu đủ điều kiện chia tài sản chung theo quy định của Nghị quyết số 02/2004/NĐ-CP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.

    - Nếu nhà đất đó cấp cho hộ gia đình trong đó có các cậu của bạn (có tên kê khai là thành viên của hộ gia đình thời kỳ giao đất hoặc thời kỳ cấp Sổ...) thì các cậu bạn cũng có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của hộ gia đình.

  • Xem thêm     

    25/10/2012, 08:45:12 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Để lấy đất của dân làm đường thì Nhà nước phải có quy hoạch được phê duyệt và phải lên phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Sau khi phương án đó được thông qua người dân và được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì mới ra quyết định thu hồi đất và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thực hiện chính sách tái định cư cho người dân. Bạn tham khảo các quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

               Nếu ở địa phương bạn, chính quyền tự ý thu hồi đất mà không nên phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, không ban hành các văn bản về việc thu hồi đất thì người dân có quyền khiếu nại hành vi thu hồi đất trái pháp luật đó. Người nào chỉ đạo cho xe ủi đất phá hoại tài sản trên đất của người dân còn có thể bị xử lý hình sự về tội hủy hoại tài sản hoặc một số tội danh khác.

  • Xem thêm     

    25/10/2012, 06:00:15 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn cần phải xem lại giẩy tờ mua bán nhà của cha bạn xem giá trị pháp lý đến đâu. Nếu có gia trị pháp lý thì nhà đất đó là di sản của cha bạn và các thừa kế của cha bạn theo quy định tại Điều 676 BLDS sẽ được hưởng nếu cha bạn không có di chúc.

    Để xác định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế, bạn tham khảo quy định sau đây tại Nghị quyết số 02/2004?NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao:

    "Xác định quyền sử dụng đất là di sản

    1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

    1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

    1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

    a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

    b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

    c) Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

    1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai."

  • Xem thêm     

    25/10/2012, 05:49:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Khi anh ta phạm tội thì lý lịch của anh ta sẽ được công an làm rõ là có vợ hay chưa. Do vậy, nếu anh ta khai là chưa có vợ cũng không có ý nghĩa gì bởi việc đăng ký kết hôn là công khai và lưu hồ sơ.

    Nếu bạn đơn phương thì phải có giấy đăng ký kết hôn hoặc các giấy tờ xác nhận về vệc đã kết hôn mà chưa ly hôn (xin cấp lại hoặc cấp bản sao từ sổ gốc...). Việc ly hôn của bạn sẽ gặp nhiều rắc rối bởi các giẩy tờ không hoàn chỉnh và bị đơn ở trong trại giam... 

    Việc gài bẫy của bạn có thể dẫn bạn vào tù cùng anh ta. Bạn có thể bị khởi tố với vai trò đồng phạm là người xúi giục người cầm đầu hoặc giúp sức...

  • Xem thêm     

    21/10/2012, 10:22:59 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

               Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            1. Theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và Điều 671 Bộ luật dân sự năm 1995 thì Di chúc chung vợ chồng có hiệu lực từng phần đối với tài sản của từng người nếu vợ chồng không chết cùng nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc (đến Bộ luật dân sự năm 2005 mới quy định là di chúc chung vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết). 

             Theo thông tin bạn nêu thì cha bạn mất năm 1992, mẹ bạn mất năm 2003 nên thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và Bộ luật dân sự năm 1995. Nếu cha mẹ bạn không có thỏa thuận là di chúc có hiệu lực khi người sau cùng chết thì phần di chúc đối với di sản của cha bạn đã có hiệu lực từ năm 1992. Đến nay, đã hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với phần di sản của cha bạn ( chứ không phải là di chúc hết hiệu lực).  Di chúc đó có thể có hiệu lực một phần hoặc di chúc vô hiệu toàn bộ, tùy thuộc vào nội dung và hình thức của di chúc.

               2. Bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên cơ quan thi hành án có quyền thi hành các quyết định của Bản án đó. Bản án đó chỉ bị tạm hoãn, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ trong một số trường hợp nhất định, bạn tham khảo một số quy định của Luật thi hành án sau đây:

               "Điều 48. Hoãn thi hành án

    1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong các trường hợp sau đây:

    a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định;

    b) Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của các bên. Trong thời gian hoãn thi hành án do có sự đồng ý của người được thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án;

    c) Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên;

    d) Tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết;

    đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 179 của Luật này.

    2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.

    Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án.

    Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được. 

    Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.

    3. Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này thì phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu của người có thẩm quyền.

    4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.

    Điều 49. Tạm đình chỉ thi hành án

    1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

    Trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo ngay bằng văn bản cho người đã kháng nghị.

    Trong thời gian tạm đình chỉ thi hành án do có kháng nghị thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.

    2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Toà án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.

    Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án.

    3. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một trong các quyết định sau đây:

    a) Quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền;

    b) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án giữ nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị;

    c) Quyết định của Toà án về việc đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

    Điều 50. Đình chỉ thi hành án

    1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp sau đây:

    a) Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;

    b) Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;

    c) Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;

    d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ;

    đ) Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;

    e) Có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án;

    g) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;

    h) Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên.

    2. Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này. "

                3. Nếu Tòa án xác định phần di chúc của cha bạn không có hiệu lực hoặc/và đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với phần di sản của cha bạn thì ai đang quản lý di sản được tiếp tục quản lý phần di sản đó (1/2 tài sản của cha mẹ bạn để lại). Việc chia tài sản chung đối với phần di sản hết thời hiệu khởi kiện chỉ được thực hiện nếu thỏa mãn 1 trong 2 trường hợp quy định tại Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cụ thể như sau:

               "Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

    a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

    a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

    a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

    a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

    b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.".

                 4 . Nếu di chúc của cha mẹ bạn có hiệu lực pháp luật hoặc/và có sự đồng thuận của tất cả các thừa kế của cha mẹ bạn thì di sản đó mới là tài sản chung. Khi đó gia đình bạn mới thực hiện được thủ tục khai nhận di sản thừa kế để phân chia di sản. Hiện nay, gia đình bạn đang có tranh chấp về thừa kế và đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật nên gia đình bạn phải tuân thủ bản án đó chứ không thể thực hiện được thủ tục khai nhận di sản thừa kế.

                5. Nếu không đồng ý với bản án đó thì các đương sự có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền kháng nghị Giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 285 Bộ luật tố tụng dân sự để xem xét lại bản án đó theo thủ tục Giám đốc thẩm. Nếu có căn cứ để giám đốc thẩm thì bản án phúc thẩm sẽ bị kháng nghị và vụ án sẽ được xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm. Hội đồng giám đốc thẩm có thể hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật đó để giải quyết lại nếu có căn cứ cho rằng khi giải quyết vụ án, tòa án đã không khách quan, áp dụng sai pháp luật hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (Điều 283 BLTTDS)...

     

  • Xem thêm     

    19/10/2012, 10:36:18 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Nếu việc chuyển nhượng đã đầy đủ thủ tục thì bạn có thể yêu cầu cô bạn và Dượng bạn trả tiền chuyển nhượng. Số tiền đó cũng là di sản do ba bạn để lại. Theo hồ sơ thì việc chuyển nhượng đó là tự nguyện, hợp pháp.. nếu bạn cho rằng việc chuyển nhượng đó không hợp pháp thì bạn phải tìm chứng cứ chứng minh về việc đó thì Tòa án mới chấp nhận hủy hợp đồng chuyển nhượng theo yêu cầu của bạn. 

  • Xem thêm     

    19/10/2012, 09:26:50 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

     

    Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

    "Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa  thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa  thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa  thuận khác.

     Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 hướng dẫn cụ thể như sau:

    "Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn (Điều 92).

    Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đây:
    a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
    Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
    b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
    c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
    d. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai
    ."

              Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác.".

              Nếu trong hồ sơ vụ án thể hiện bạn có ưu thế hơn vợ bạn về điều kiện cho con bạn phát triển về thể chất, tinh thần và các điều kiện cho con bạn phát triển thì Tòa án sẽ giao con cho bạn trực tiếp chăm sóc.

     

     

  • Xem thêm     

    17/10/2012, 10:38:43 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của gia đình bạn là tranh chấp thừa kế. Bạn có thể gửi đơn tới cơ quan đã cấp GCN QSD đất cho Cô và Dượng của bạn để yêu cầu hủy bỏ GCN QSD đất đó hoặc khởi kiện tới tòa án nơi có nhà đất đó để yêu cầu Hủy bỏ GCN QSD đất và yêu cầu chia thừa kế của Ba bạn theo quy định pháp luậtạn
                    '

             Bạn cần thu thập các chứng cứ về GCN QSD đất và hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất của Ba bạn để làm căn cứ cho Tòa án giải quyết. Nếu chữ ký trong văn bản chuyển quyền sử dụng đất của Ba bạn là không đúng (kết quả giám định chữ ký) thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu và lấy lại nhà đất cho anh, chị em bạn để hưởng thừa kế theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/10/2012, 09:44:11 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

     

    "Điều 9. Điều kiện kết hôn

    Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;

    2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;

    3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.." 

                Như vậy, theo quy định tại Điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới đủ tuổi kết hôn. Nếu nam, nữ kết hôn trước độ tuổi này là có hành vi tảo hôn.

                 Hành vi mà bạn nêu trên đã vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình và theo quy định thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm  hình sự như sau:

     1. Về xử phạt hành chính (Nghị định số 87/2001/NĐ-CP): Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50 nghìn  đồng đến 200 nghìn  đồng đối với một trong các hành vi sau:

     - Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của tòa  án buộc chấm dứt quan hệ đó;

     - Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn.

    2. Xử lý hình sự: Theo điều 148 Bộ luật Hình sự về tội tổ chức tảo  hôn, tội tảo  hôn, người nào có một trong các hành vi sau đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:

     - Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;

     - Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của  tòa  án buộc chấm dứt quan hệ đó.

  • Xem thêm     

    15/10/2012, 10:21:25 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Bạn cần nộp đơn xin ly hôn đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự (Buộc chồng bạn phải giao con cho bạn chăm sóc, nuôi dưỡng, chữa bệnh...), cụ thể như sau:

     

    "Điều 99. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

    1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

    2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó.

    3. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.

    Điều 102. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

    1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

    2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

    3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

    4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

    5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.

    6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

    7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

    8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

    9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.

    10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.

    11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.

    12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.

    13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.

    Điều 115. Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định

    Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Toà án giải quyết.".

                   Nếu Tòa án cố tình không áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời trên để đảm bảo tính mạng, sức khỏe của con bạn và quyền lợi hợp pháp của mẹ con bạn thì bạn có thể yêu cầu Luật sư vào cuộc để đảm bảo quyền lợi tốt nhất của bà mẹ và trẻ em trong vụ án ly hôn.

  • Xem thêm     

    14/10/2012, 10:34:10 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Về nguyên tắc thì đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân (dù ly thân)  mặc nhiên là con chung của hai vợ chồng nên trong giấy khai sinh sẽ ghi tên mẹ và cha đẻ của đứa trẻ theo đăng ký kết hôn.

    Nếu người chồng không thừa nhận đứa trẻ đó là con thì tiến hành thủ tục giám định ADN và yêu cầu cán bộ hộ tịch thay đổi nội dung đăng ký khai sinh. Nếu có tranh chấp thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Nếu người nào đó muốn nhận đứa trẻ (do vợ người khác đẻ ra) là con mình thì phải có chứng cứ (giám định ADN). Nếu không có tranh chấp về con thì người đó có thể thực hiện thủ tục nhận cha con theo quy định tại Nghị định158/2005/NĐ-CP về quản lý và đăng ký hộ tịch. Nếu có tranh chấp thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Nghị định158/2005/NĐ-CP:

    "Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    Điều 32. Điều kiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    1. Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.

    2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp.

    Điều 33. Thẩm quyền đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.

    Điều 34. Thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

    Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

    a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;

    b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có).

    2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.

    Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

    3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên.

    Điều 35. Bổ sung, cải chính Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con

    1. Căn cứ vào Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con, ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho người con ghi bổ sung phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con, nếu phần khai về cha, mẹ trước đây để trống.

    Trong trường hợp Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu 1 quyển tại ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là ủy ban nhân dân cấp huyện), thì ủy ban nhân dân cấp xã thông báo cho ủy ban nhân dân cấp huyện để ghi tiếp việc bổ sung.

    2. Trong trường hợp phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con đã ghi tên người khác, không phải là cha, mẹ đẻ, thì đương sự phải làm thủ tục cải chính theo quy định tại Mục 7 Chương này. "

  • Xem thêm     

    14/10/2012, 09:39:39 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được Luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:

     

    "Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa  thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa  thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa  thuận khác."

     

    Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tòa án sẽ giao con cho bạn nuôi dưỡng theo quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 92 luật hôn nhân và gia đình nêu trên không phụ thuộc vào hoàn cảnh và thu nhập của bạn.

     

    - Chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con bạn cho đến khi con bạn trưởng thành, mức cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định căn cứ vào nhu cầu của con bạn và khả năng cấp dưỡng của chồng bạn.

    - Nếu chồng bạn cố tình không đến tòa án để giải quyết việc ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết ly hôn vắng mặt chồng bạn, thời gian giải quyết vụ án như vậy khoảng 5-6 tháng;

    - Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực xác định bạn được nuôi con và chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng là chồng bạn không chấp hành bản án thì bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế, buộc chồng bạn phải chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 10:00:10 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    - Bạn phải làm rõ "di chúc để đất thành đất hương hỏa" mà bạn nói là thế nào? Di chúc thành đất hương hỏa đó có hiệu lực pháp luật không? Đã được đăng ký làm đất thờ cúng, nhà thờ chi họ.. chưa? Nếu Di chúc hợp pháp và đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất từ đất của Ông Cố thành đất nhà thờ, đất đòng họ thì nhà đất đó là tài sản chung của chi, họ.

    - Nếu Di chúc để đất làm đất hương hỏa đó không có hiệu lực pháp luật thì phải xác định lại chủ sử dụng thửa đất đó. Nếu ông Cố đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất (Bằng khoán điền thổ; Chứng thư đoạn mại; Văn tự đoạn mại; GCN QSD đất tạm thời..) thì phải có sự thỏa thuận, thống nhất của các đồng sở hữu, đồng thừa kế thì người quản lý mới được nhận số tiền  bồi thường đó. Nếu không thống nhất được việc nhận tiền bồi thường thì số tiền đó sẽ chuyển vào kho bạc chờ cho đến khi nào gia đình thống nhất được việc nhận, sử dụng số tiền đó hoặc có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền hưởng số tiền đó;

    - Nếu nhà đất đó không có bất cứ giấy tờ gì về quyền sử dụng đất của các thế hệ trước, người đang sử dụng đất sử dụng ổn định theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 3 Nghị định số84/2007/NĐ-CP thì người đang sử dụng mới được nhận tiền bồi thường.

    - Nếu có giấy tờ chứng minh nhà đất đó là của ông Cố hoặc ông Nội nhưng ông cố, ông nội đã chết quá 10 năm thì không thể giải quyết việc chia tài sản theo luật thừa kế được (vì hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế). Nếu đủ điều kiện áp dụng Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 về chia tài sản chung thì mới chia tài sản chung. Nếu không đủ điều kiện chia tài sản chung và có tranh chấp thì số tiền đó sẽ "treo" tại kho bạc Nhà nước cho đến khi vụ việc được giải quyết.

  • Xem thêm     

    09/10/2012, 05:36:46 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             1. Theo thông tin bạn nêu thì 600m2 đất đó là di sản của ông bà (bố mẹ chồng của bạn?) để lại không có di chúc nên theo quy định pháp luật thì toàn bộ di sản đó được chia ĐỀU  cho các thừa kế của ông bà bạn theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự (cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết). Nếu tự thỏa thuận chia thừa kế giữa các anh em trong gia đình thì "chia thế nào cũng được" miễn là đồng thuận (còn ra pháp luật là "chia đều" không phân biệt trai, gái hoàn cảnh, không phụ thuộc vào nguồn gốc tài sản...)

             2. Phần đất giãn dân cấp cho "bác trai"  là tài sản riêng của gia đình bác trai. Việc bác trai được cấp đất giãn dân không làm mất quyền thừa kế đối với di sản do cha mẹ để lại. Do vậy, theo quy định pháp luật thì người được cấp đất giãn dân  (hoặc được bố mẹ tặng cho trước khi chết ) vẫn được thừa kế di sản của bố mẹ để lại theo pháp luật.

             3. Bạn chưa nêu rõ giấy tờ sở hữu của di sản (đất có giấy tờ theo Điều 50 luật đất đai không? Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?..). Ông bà chết khi nào, còn thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế không?...

    Nếu thửa đất trên có tranh chấp về thừa kế, thì Tòa án sẽ căn cứ và quy định của Bộ luật dân sự, Luật đất đai và hướng dẫn tại mục 1, phần II, Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để xác định nhà đất tranh chấp có đủ điều kiện công nhận là di sản hay không, cụ thể như sau:

    "Xác định quyền sử dụng đất là di sản

    1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

    1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

    1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

    a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

    b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

    c) Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

    1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.".

     ( Nguồn:  http://luatsuchinhphap.hanoi.vn  )

52 Trang «<24252627282930>»