Chào bạn!
Theo quy định pháp luật thì người lái xe có thể bị xử lý hình sự, còn chủ xe phải bồi thường thiệt hại cho bố bạn.
I. Trách nhiệm hình sự:
Bạn tham khảo quy định của Bộ luật hình sự và Nghị quyết hướng dẫn của TAND tối cao sau dây:
"Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm
trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm.
“Người điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt
hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải
chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:
a. Làm chết một người;
b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương
tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 41% đến 100%;
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương
tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ
thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những
người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba
mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu
đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.”.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu
hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích
thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm
hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm
vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu
quả rất nghiêm trọng.
“Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là
"gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo
điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:
a. Làm chết hai người;
b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu
đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.”
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm.
“Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau
đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình
sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:
a. Làm chết ba người trở lên;
b.. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;
c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật của những người này trên 200%.
e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được
hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;
g. Gây thiệt hại về
tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên”
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ một năm đến năm năm.".
II. Trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại) được pháp luật quy định như sau:
1. Điều 623BLDS năm 2005 quy định:
"Ðiều 623. Bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm
phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và
các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải
tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã
giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp
bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm
cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn
nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại.".
Mục 1, Phần II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn cụ thể như sau:
"Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện
đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các
thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm,
mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí;
tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị
thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho
người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt
giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay
thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại (nếu có).
1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu
trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do
sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ
bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định
từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ
nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng
tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy
mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả
các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác
định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực
tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và
chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 609 BLDS.
b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại
được thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có
được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác
định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập
thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu
nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức
khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường
hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế
của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600
ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị
công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu
nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả
đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không
bị mất.
1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa
phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc
cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu
của cơ sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị được xác định như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền
lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương,
tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt
hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu
nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình
của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi
người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác
định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm
việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền
công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn
tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được
cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định
của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và
do đó không được bồi thường.
1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả
năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng
và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm
khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý
cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp
lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp
lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được
tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa
phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt
hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.
1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho
chính người bị thiệt hại.
b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b
tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh
thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn
cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia
đình và cá nhân…
c)Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại
trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào
mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu
do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường."