Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

52 Trang «<2345678>»
  • Xem thêm     

    19/12/2016, 08:25:33 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì kể từ thời điểm kết hôn, hai người chính thức trở thành vợ chồng, quan hệ hôn nhân được xác lập. 

    Quan hệ hôn nhân đó chỉ chấm dứt trong một số trường hợp sau đây:

    - Một trong hai bên chết;

    - Có bản án hoặc quyết định của tòa án giải quyết tuyên bố ly hôn;

    - Có quyết định của tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật.

    Vì vậy, nếu bạn đã đăng ký kết hôn với người nước ngoài, nay không muốn ra nước ngoài sinh sống, có nguyện vọng ly hôn thì gửi đơn tới TAND cấp tỉnh nơi đăng ký kết hôn để được xem xét giải quyết việc ly hôn. Nếu việc kết hôn không tự nguyện, có sự đe dọa hoặc lừa dối thì bạn có thể yêu cầu tòa án tuyên bố hủy hôn nhân trái pháp luật.

  • Xem thêm     

    28/11/2016, 07:49:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

    "

    Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng

    1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.

    2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.

    Điều 30. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

    1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

     

    2. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.

    Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

    Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

    1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

    2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

    3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

    4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

    5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

     

    6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

    ".

    Như vậy, đối chiếu với các quy định của pháp luật nêu trên thì bạn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ mà vợ bạn xác lập nhằm đáp ứng các nhu cầu tối thiểu, thiết yếu của gia đình như nhu cầu ăn, mặc, ở... Nói cách khác những khoản nợ mà vợ bạn tự ý đi vay để cả gia đình bạn sử dụng vào những chi tiêu hàng ngày thì bạn mới có nghĩa vụ trả nợ. 

    Nếu khoản nợ riêng của vợ bạn để chi tiêu cá nhân, bạn không tham gia cũng không được sử dụng số tiền vay đó, mục đích sử dụng tiền của vợ bạn không phải để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ bạn phải có nghĩa vụ với toàn bộ khoản nợ đó.

  • Xem thêm     

    07/11/2016, 07:58:05 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của luật cư trú thì nơi cư trú của công dân bao gồm nơi đăng ký thường trú và nơi đăng ký tạm trú. Quyền cư trú là quyền tự do của công dân. Vì vậy, vợ bạn chỉ đăng ký tạm trú ở nhà chồng, không thực hiện thủ tục chuyển nơi thường trú, đăng ký thường trú tại nhà chồng thì vợ bạn cũng không vi phạm.

    Để thực hiên thủ tục chuyển nơi đăng ký thường trú thì vợ bạn liên hệ với công an cấp xã, phường để xin giấy chuyển hộ khẩu, kèm theo là bản khai nhân khẩu, phiếu báo thay đổi hộ khẩu để nộp cho nơi cư trú nơi bạn đang cư trú để đăng ký thường trú vợ theo chồng.

  • Xem thêm     

    04/11/2016, 05:22:30 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bạn chưa nói rõ nơi chồng bạn cư trú có phải là thành phố thuộc trung ương, thủ đô Hà Nội hay không nên luật sư chưa có thông tin để tư vấn cụ thể cho bạn, Nếu chồng bạn đang có hộ khẩu tại Hà Nội thì việc nhập hổ khẩu của bạn căn cứ vào quy định của Luật cư trú và Luật Thủ đô hiện hành. Cụ thể như sau:

    Điểm a, khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú quy định:

     

    “Điều 20. Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương        

    Công dân thuộc một trong những trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương: 

    2. Được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con”

    Khoản 3 và 4 Điều 19 Luật Thủ đô hiện hành quy định về Quản lý dân cư như sau:

    “3. Việc đăng ký thường trú ở ngoại thành được thực hiện theo quy định của pháp luật về cư trú.

    4. Công dân thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú ở nội thành:

    a) Các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 20 của Luật cư trú.”

     

    Theo Điều 21 Luật cư trú và Điều 6 Thông tư  số 05/2014/TT-BCA của Bộ Công an ngày 09/9/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cư trú thì hồ sơ đăng ký thường trú bao gồm :

    1, Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu;

    2, Bản khai nhân khẩu;

    3, Giấy chuyển hộ khẩu.

    4, Giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp của chồng quy định tại Điều 6 Nghị định số 31/2014/NĐ-CPngày 18 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú, gồm một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ; Giấy tờ về quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai (đã có nhà ở trên đất đó);Giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng (đối với trường hợp phải cấp giấy phép);Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước hoặc giấy tờ về hóa giá thanh lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; Hợp đồng mua nhà ở hoặc giấy tờ chứng minh việc đã bàn giao nhà ở, đã nhận nhà ở của doanh nghiệp có chức năng kinh doanh nhà ở đầu tư xây dựng để bán; Giấy tờ về mua, bán, tặng, cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở có công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp xã); Giấy tờ về giao tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, cấp nhà ở, đất ở cho cá nhân, hộ gia đình di dân theo kế hoạch của Nhà nước hoặc các đối tượng khác;

     Giấy tờ của Tòa án hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết cho được sở hữu nhà ở đã có hiệu lực pháp luật;

    - Giấy tờ có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở, đất ở không có tranh chấp quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở nếu không có một trong các giấy tờ nêu trên;

    Có nhiều trường hợp nhập hộ khẩu như: Theo thời hạn cư trú; Theo thời hạn hợp đồng; Theo luật hôn nhân và gia đình... nên trường hợp của bạn không thụ thuộc vào thời hạn cư trú. Vì vậy, nếu cơ quan đăng ký thường trú không thực hiện thủ tục thì bạn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    27/10/2016, 03:29:11 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Vụ việc của gia đình bạn phải thực hiện bằng thủ tục khai nhận thừa kế. Cần có chữ ký của mẹ bạn và các anh chị em bạn thì mới thực hiện được thủ tục.  

    Bạn có thể liên hệ với công chứng viên để soạn thảo văn bản và cung cấp các giấy tờ sau: Sổ tiết kiệm; CMND, Hộ khẩu của mẹ bạn và các anh, chị em bạn; Giấy chứng tử của bố bạn và của ông bà nội; Giấy khai sinh của anh, chị, em bạn và giấy đăng ký kết hôn của bố mẹ bạn. Nếu thiếu loại giấy tờ nào thì bạn có thể xin xác nhận hoặc cam kết về nội dung đó.

  • Xem thêm     

    27/10/2016, 11:05:21 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật hôn nhân và gia đình ghi nhận nguyên tắc hôn nhân  tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng. Vợ chồng phải có nghĩa vụ thủy chung, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau...

    Nếu một trong các bên có quan hệ ngoại tình là vi phạm luật hôn nhân và gia đình. Hành vi vi phạm này tùy vào tính chất, mức độ của hành vi và tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà có thể bị xử lý theo quy định pháp luật.

    Theo quy định của pháp luật hiện hành thì nếu người đã có vợ, có chồng mà chung sống công khai "như vợ chồng" với người khác (có con chung, tài sản chung, thường xuyên ở chung cùng nhà công khai với mọi người...) mà gây hậu quả nghiêm trọng (dẫn đến ly hôn, con cái ly tán, tự tử...) thì hành vi vi phạm hôn nhân này sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 147 BLHS.

    Nếu hành vi ngoại tình công khai "chung sống như vợ chồng" mà chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ bị xử phạt hành chính từ 100 -300 ngàn đồng theo quy định tại Nghị định 110/2013/NĐ-CP

    Nếu hành vi ngoại tình không công khai (lén lút, vụng trộm...) thì pháp luật không quy định chế tài xử lý, mà chỉ có thể bị tác động bởi quy tắc đạo đức xã hội.

    Bạn tham khảo các quy định sau đây:

    Điều 147 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định:
    “1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
    2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

    Theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1, Mục 3 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC, thì: Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình.Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…
    + Điều kiện đủ, phải có hậu quả xảy ra hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
    Để thỏa mãn điều kiện này, phải thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
    Một là, hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng phải gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…

    Hai là, người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Đã bị xử phạt hành chính theo Điều 48, Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP). Mà theo đó, tại khoản 1 Điều 48 Nghị định này, có quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
    – Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
    – Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
    – Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.

     

  • Xem thêm     

    27/10/2016, 08:12:12 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ luật dân sự và Luật đất đai quy định "Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất".

    Theo thông tin bạn nêu thì việc tặng cho giữa người anh và em gái chỉ viết tay, chưa công chứng, chứng thực, chưa đăng ký sang tên nên việc tặng cho đó chưa có hiệu lực, chưa phát sinh quyền sử dụng đất với người em. Vì vậy, ngôi nhà và thửa đất trên sẽ trở thành di sản thừa kế do người chồng để lại. Giấy tặng cho đất không phải là di chúc, vì vậy, nếu người chồng không có di chúc nào khác thì di sản sẽ chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất của người có di sản quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS năm 2005, trong trường hợp này, người em sẽ không có quyền lợi gì đối với ngôi nhà và thửa đất đó.

  • Xem thêm     

    06/09/2016, 04:34:47 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu sự việc chỉ là một vài tin nhắn bày tỏ quan điểm, thái độ về chuyện tình cảm của vợ chồng bạn thì bạn chỉ nên nhắc nhở người hàng xóm đó chứ chưa thể kiện tụng gì được.

    Nếu người nào trong gia đình bạn hoặc người khác cố tình cản trở hôn nhân của bạn, có những hành động tác động trực tiếp gây ảnh hưởng tới hôn nhân của bạn thì bạn có thể trình báo sự việc với cơ quan công an để được xem xét, xử lý về hành vi cản trở hôn nhân tự nguyện. 

     

  • Xem thêm     

    28/08/2016, 08:26:18 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì hiện nay vợ chồng chị bạn đang mâu thuẫn, có thể dẫn đến ly hôn. Nếu ly hôn thì tài sản chung của hai vợ chồng sẽ chia đôi sau khi thanh toán nghĩa vụ với các khoản nợ chung.

    2. Với ngôi nhà đã mang thế chấp thì các bên cùng phải có nghĩa vụ đối với hợp đồng thế chấp đó. Nếu công ty (bên vay tiền) không trả được nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại ngôi nhà đó để trả nợ. Vì vậy, nếu bên công ty không trả nợ ngân hàng thì chị bạn có nguy cơ mất tài sản là ngôi nhà đó, trừ trường hợp hợp đồng thế chấp vô hiệu vì một lý do nào đó. Nếu anh chị bạn ly hôn và có tranh chấp về tài sản chung thì tòa án sẽ triệu tập ngân hàng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu công ty trả nợ cho ngân hàng thì ngôi nhà đó sẽ chia đôi cho anh chị bạn. Nếu công ty không còn khả năng trả ngân hàng thì ngôi nhà đó sẽ bị xử lý để trừ nợ ngân hàng cho công ty theo nội dung cam kết tại hợp đồng thế chấp.

  • Xem thêm     

    16/08/2016, 09:38:21 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu như chỉ vì bạn đi xuất khẩu lao động thì đó không phải là lý do cấm kết hôn với công an. Bạn có thể bảo bạn trai của bạn tìm hiểu thêm các quy định về điều kiện kết hôn với người trong ngành công an tại chính cơ quan của bạn đó.

  • Xem thêm     

    21/06/2016, 08:21:01 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì thời hạn chuẩn bị xét xử để giải quyết một vụ án tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình từ 4-6 tháng. Vì vậy, nếu bạn đơn phương ly hôn thì thời hạn để tòa án xem xét giải quyết đơn của bạn không quá 6 tháng. Tuy nhiên, tòa án chỉ đồng ý cho bạn đơn phương ly hôn nếu xét thấy tình trạng hôn nhân của bạn đã trở lên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tình trạng hôn nhân trầm trọng thể hiện là có bạo lực gia đình hoặc có ngoại tình hoặc ly thân... mà đã được gia đình, bạn bè hoặc chính quyền địa phương hòa giải nhưng vẫn không thể giải quyết được mâu thuẫn.

    Theo thông tin bạn nêu thì bạn mới kết hôn được một tuần... vì vậy sẽ rất khó để tòa án chấp nhận cho bạn được đơn phương ly hôn.

    Trong trường hợp bạn có chứng cứ chứng minh là việc kết hôn đó là bị lừa dối hoặc không tự nguyện thì bạn có thể yêu cầu tòa án tuyên hủy hôn nhân trái pháp luật đó. 

    Nếu vợ chồng bạn thuận tình ly hôn thì thời gian xem xét giải quyết sẽ nhanh hơn, theo luật là việc dân sự nên thời gian giải quyết sẽ không quá 2 tháng.

    Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự được quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 05/2012/NQ–HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

    Điều 179. Thời hạn chuẩn bị xét xử

    1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:

    a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

    b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

    Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

    2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định sau đây:

    a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;

    b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;

    c) Đình chỉ giải quyết vụ án;

    d) Đưa vụ án ra xét xử.

    3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.

    Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự được hướng dẫn tại Điều 14, Nghị quyết số 05/2012/NQ – HĐTP như sau:

    Điều 14. Thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 của BLTTDS

    Điều 179 của BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, các thời hạn quy định trong Điều này đều được tính trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính như sau:

    1. Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

    a) Nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án tối đa là:

    - Bốn tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;

    - Hai tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của BLTTDS.

    b) Nếu phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án tối đa là:

    - Sáu tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;

    - Ba tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31của BLTTDS.

    c) Trong các trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này mà phiên toà không được mở trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường hợp được cộng thêm tối đa là một tháng nữa.

    2. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

    Trong trường hợp có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử được bắt đầu tính lại, kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.

    3. Về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.

    Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTDS mà thời hạn gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại không quá năm ngày) mà Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS, thì cần phải báo ngay với Chánh án Toà án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn quy định tại đoạn cuối khoản 1 Điều 179 của BLTTDS và hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều này. Hết thời hạn được gia hạn, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra một trong những quyết định quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS.

    a) “Những vụ án có tính chất phức tạp” là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài,… Tuy nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

    b) “Trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu,… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định.

    Ví dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H ở miền núi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong đó đã ấn định ngày mở phiên toà. Tuy nhiên, còn hai ngày nữa là tiến hành mở phiên toà, thì xảy ra lũ quét. Trụ sở của Toà án nhân dân huyện X bị hư hỏng. Do phải khắc phục hậu quả của lũ quét, sửa chữa lại trụ sở, nên Toà án nhân dân huyện X không thể tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.

    c) “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến,… nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.

     

  • Xem thêm     

    25/05/2016, 09:31:05 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    1. Theo quy định pháp luật thì một người có di sản qua đời thì di sản của họ sẽ thuộc về người thừa kế của họ theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật. Nếu không còn ai thừa kế thì di sản thuộc về Nhà nước.

    2. Nếu người có di sản chết đi mà trước khi chết có để lại di chúc thì cần kiểm tra lại giá trị pháp lý của di chúc đó, nếu di chúc hợp pháp thì di sản sẽ được chia theo di chúc, nếu di chúc không hợp pháp hoặc có phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì di sản đó sẽ chia theo pháp luật cho hàng thừa kế theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự. Nếu di chúc có quy định điều kiện hưởng di sản thì người hưởng di sản phải đáp ứng được các điều kiện đó.

    3. Di chúc được coi là hợp pháp nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 6 52, Điều 653 BLDS năm 2005 sau đây:

    "Điều 652. Di chúc hợp pháp

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

    Điều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

    1. Di chúc phải ghi rõ:

    a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

    b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

    c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

    d) Di sản để lại và nơi có di sản;

    đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

    2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.".

    4. Nếu di sản được chia theo pháp luật (không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu) thì việc chia di sản, những người hưởng di sản sẽ tuân theo quy định sau đây của Bộ luật dân sự năm 2005:

    "Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

    1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

    a) Không có di chúc;

    b) Di chúc không hợp pháp;

    c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

    d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

    2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

    a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

    b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

    c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

    Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

    Điều 677. Thừa kế thế vị

    Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.".

    Bạn có thể căn cứ vào các quy định pháp luật nêu trên để biết trường hợp trên có chia di sản theo di chúc hay không. Nếu chia di sản theo pháp luật thì những ai sẽ được hưởng thừa kế (hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS).

  • Xem thêm     

    25/05/2016, 05:54:03 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của pháp luật thì đất đai là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, việc chuyển quyền sở hữu tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký - thời điểm ghi tên người sử dụng đất vào hồ sơ địa chính, đồng thời cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Vì vậy, nếu người được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa được đăng ký sang tên thì tài sản vẫn là di sản của người chết. Cụ thể như sau:

    Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2005:

    “Điều 168. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản 

    1. Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

     Điều 439 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

    “Điều 439. Thời điểm chuyển quyền sở hữu   

    1. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

    2. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó.”

    Điều 692 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

    “Điều 692. Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

    Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.”

    Luật đất đai quy định: Việc đăng ký quyền sử dụng đất được thực hiện tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:.. "Người sử dụng đất thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này;”

    Luật đất đai cũng quy định đăng ký quyền sử dụng đất là ghi tên người sử dụng đất vào hồ sơ địa chính, đồng thời cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất.

    Do vậy, nếu cháu của bạn mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì nhà đất trên vẫn là di sản thừa kế và các thừa kế vẫn có quyền thay đổi ý kiến. Thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất do thừa kế phải thực hiện thủ tục khai nhận hoặc phân chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    18/05/2016, 10:02:07 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !

    Nếu bố mẹ bạn ly hôn thì việc phân chia tài sản sẽ do bố mẹ bạn thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. 

    Những tài sản là tài sản chung vợ chồng sẽ chia đôi đồng thời chia đôi nghĩa vụ nợ chung (nếu có), còn tài sản riêng của ai thì trả về người đó.

    Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Tài sản có trước hôn nhân hoặc tặng cho riêng, thừa kế riêng, có nguồn gốc là tài sản riêng sẽ là tài sản riêng. Bạn tham khảo quy định sau đây của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

    "Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứngminh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

     

     Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

    1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

    2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này."

     

    Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

    1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

    a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

    b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

    3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

    4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

    Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

    Điều 60. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn

    1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.

    2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.

    Điều 61. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

    1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

    Điều 62. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn

    1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.

    2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

    a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

    Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;

    b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;

    c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;

    d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

    3. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.""

     

  • Xem thêm     

    18/05/2016, 09:53:23 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !

    Nếu vợ chồng bạn đã ký vào biên bản thuận tình ly hôn và không có thay đổi gì thì sau 7 ngày tòa án sẽ có quyết định thuận tình ly hôn gửi cho các đương sự và lưu hồ sơ. Bạn có thê liên hệ với tòa án để xin cấp quyết định thuận tình ly hôn trong vụ việc đó. Nếu bạn nhớ chính xác thời điểm thực hiện thủ tục thì việc tra cứu sẽ nhanh chóng hơn...

  • Xem thêm     

    24/03/2016, 04:30:08 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! 

    Ủy thác tư pháp là một biện pháp thu thập chứng cứ.  Theo quy định pháp luật hiện hành thì thủ tục ủy thác thu thập chứng cứ là nhiệm vụ của tòa án khi thấy cần thiết phải thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật, đương sự không phải thanh toán chi phí ủy thác thu thập chứng cứ nên không tốn kém, thiệt hại cho đương sự. Pháp luật hiện hành không quy đinh ủy thác tư pháp bao nhiêu lần, thường thì chỉ ủy thác một lần để thu thập các thông tin cần thiết. Nếu tòa án ủy thác nhiều lần và thu chi phí ủy thác thì đương sự có quyền khiếu kiện theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    14/03/2016, 08:09:26 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Theo quy định tại điểm a, khoản 35, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì "tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc..." là nơi có thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình... vì vậy nếu bạn có nhu cầu ly hôn thì phải khởi kiện tới tòa án nơi chồng bạn đang sinh sống, làm việc là TAND quận Thủ Đức.

    Nếu vợ chồng bạn thuận tình ly hôn thì hai vợ chồng bạn có quyền thỏa thuận lựa chọn TAND quận Thủ Đức hoặc Tòa án huyện Bình Chánh giải quyết theo quy định tại Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự (thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn).

  • Xem thêm     

    14/03/2016, 07:57:43 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Pháp luật hiện hành không điều chỉnh quan hệ trong tình yêu, tình yêu là quan hệ nam nữ do đạo đức xã hội điều chỉnh. Pháp luật về hôn nhân và gia đình chỉ can thiệp khi hai người thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hoặc có con chung.

    Nếu hai người không thuộc trường hợp cấm kết hôn theo quy định sau đây của luật hôn nhân và gia đình thì hoàn toàn có thể tự nguyện kết hôn với nhau:

    Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

    2. Cấm các hành vi sau đây:

    a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

    b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

    c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

    d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

    đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

    e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

    g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

    h) Bạo lực gia đình;

    i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

    3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

    Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.

  • Xem thêm     

    18/02/2016, 08:48:39 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư đă tư vấn cho bạn. Để sang tên nhà đất thì thửa đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới thực hiện được. Còn đối với động sản thì chỉ chuyển quyền sở hữu trong một số trường hợp, với từng đối tượng và độ tuổi, về nguyên tắc thì con chưa thành niên, tài sản sẽ do người giám hộ quản lý, sử dụng.

    Bạn tham khảo một số nội dung sau đây:

    Thứ nhất, quyền có tài sản riêng của con

    Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người con trong quan hệ hôn nhân gia đình, theo quy định tại điều 75, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con

    Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình.

    Thứ hai, quản lý tài sản riêng của con

    Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định rất rõ về vấn đề quản lý tài sản riêng của con, cụ thể như sau:

    –  Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.

    – Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác.

    –  Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    – Trong trường hợp cha mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự.

    Thứ ba, định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên

    Theo quy định tại Điều 21 Bộ Luật Dân sự 2005 “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự  phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật của quy định khác. Tuy nhiên trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 20 Bộ luật Dân sự 2005).

    Theo đó, Điều 77 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định cụ thể về việc định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự như sau:

    – Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    –  Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ  hoặc người giám hộ.

    –  Trong trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện.

  • Xem thêm     

    15/02/2016, 08:07:36 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn Dung !

    Luật sư Thêm đã tư vấn cho bạn, để bạn hiểu rõ hơn các quy định pháp luật liên quan tới câu chuyện của bạn thì bạn cần lưu ý một số điểm sau:

    1. Theo quy định pháp luật hiện hành thì để xử lý người ngoại tình về tội vi phạm hôn nhân một vợ một chồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật hình sự thì có hai nội dung cần chú ý là phải là:

    -  Hành vi ngoại tình phải thể hiện tới mức độ "chung sống với nhau như vợ chồng" (công khai cho mọi người cùng biết, có tài sản chung, con chung...) chứ không đơn giản chỉ là dấm dúi, thậm thụt... 

    - Đồng thời, việc chung sống như vợ chồng đó phải gây ra "hậu quả nghiêm trọng", thì mới có thể xử lý hình sự người ngoại tình.

    Nếu họ chỉ qua lại, hẹn hò, thậm chí có con chung nhưng không công khai hoặc có chung sống như vợ chồng nhưng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì cùng lắm chỉ bị xử phạt hành chính (còn nếu ngoại tình không công khai thì không xử lý được).

    Bạn tham khảo quy định pháp luật sau đây tại Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC quy định tại Chương XV tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình theo bộ luật hình sự:

    "Về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS)

    3.1. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...

    3.2. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.

    Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...

    b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

    3.3Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theokhoản 2 Điều 147 BLHS mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.".

    Việc xử lý hành chính hành vi ngoại tình được quy định tại Nghị định 110/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    "Điều 48 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định:

    "1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

    b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;…”".

     

    Vì vậy, nếu vợ chồng bạn không thể tự giải quyết được mâu thuẫn nêu trên, mọi sự góp ý của hai bên gia đình, bạn bè đều không mang lại kết quả thì bạn có thể ly hôn hoặc trình báo sự việc trên với cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương để giải quyết theo quy định pháp luật. Nếu vụ việc chỉ là quan hệ thậm thụt, qua lại thì không xử lý được. Nếu có hành vi chung sống như vợ chồng thì có thể bị xử lý hành chính theo Điều 48, Nghị định 110/2013/NĐ-CP nêu trên. Nếu chồng bạn có hành vi chung sống như vợ chồng gây ra hậu quả nghiêm trọng như hướng dẫn tại Thông tư số 01/2001/TTLT nêu trên thì chồng bạn có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 147 BLHS.

52 Trang «<2345678>»