Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<567891011>»
  • Xem thêm     

    08/08/2015, 11:59:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu em bạn có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác với số tiền chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên thì sẽ bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể hình phạt được quy định như sau:

    "

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Có tính chất chuyên nghiệp;
      c) Tái phạm nguy hiểm;
      d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

     

    2. Trong trường hợp cơ quan điều tra còn phát hiện em bạn đánh bạc thì em bạn còn bị xử lý về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS, cụ thể như sau:

     

    "Điều 248. Tội đánh bạc  

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tính chất chuyên nghiệp;
      b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
      c) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng."

     

    Mức hình phạt cụ thể sẽ do tòa án quyết định căn cứ vào các quy định pháp luật nêu trên, tính chất của vụ việc, nhân thân của em bạn và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu bị xét xử về nhiều tội thì em bạn sẽ bị tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 BLHS để chấp hành một hình phạt chung.

  • Xem thêm     

    11/07/2015, 10:42:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu hành vi làm giả, sửa chữa... giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức thì có thể bị xử lý hình sự, cụ thể như sau:

    "Điều 266. Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức

    1. Người nào sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:

    A) Có tổ chức;

    B) Phạm tội nhiều lần;

    C) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 267. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

    1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:

    A) Có tổ chức;

    B) Phạm tội nhiều lần;

    C) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    D) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bốn năm đến bảy năm.

    4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng."

  • Xem thêm     

    07/07/2015, 10:35:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu người đó có những lời lẽ xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn thì bạn có quyền làm đơn trình báo sự việc với công an để được giải quyết. Theo thông tin bạn nêu thì người nhắn tin, chửi bới, xúc phạm bạn sẽ bị nhắc nhở hoặc xử lý hành chính... Bạn cũng nên giữ mối quan hệ đó ở mức độ cần thiết để tránh những rắc rối cho bản thân và gia đình.

  • Xem thêm     

    07/07/2015, 05:59:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 162, Bộ luật hình sự quy định về tội danh lừa dối khách hàng, nội dung cụ thể như sau:

    1. Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

    Tội lừa dối khách hàng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, uy tín của doanh nghiệp.
     
     
    Mặt khách quan của tội phạm: mặt khác quan của tội lừa dối khách hàng được thể hiện ở hành vi gian dối trong bán hàng, kinh doanh dịch vụ nhằm thu lợi bất chính như cân, đong, đo, đếm sai; cố ý tính tiền sai; hàng chất lượng kém nhưng bán theo giá hàng chất lượng tốt; cố tình thay thế phụ tùng có giá trị thấp…làm cho khách hàng phải thanh toán số lượng tiền nhiều hơn giá trị hàng hóa, dịch vụ thực tế. Tội phạm được coi là hoàn thành nếu gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
     
     
    Chủ thể của tội phạm: là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Đó có thể là người có những quyền hạn nhất định như nhân viên bán hàng, các kỹ thuật viên làm dịch vụ sửa chữa hoặc người bán hàng, kinh doanh tự do.
     
     
    Mặt chủ quan của tội phạm: tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội biết rõ hành vi lừa dối khách hàng của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì vụ lợi vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Động cơ phạm tội là vụ lợi và mục đích nhằm thu lợi bất chính.
     
     
    Hình phạt:
     
     
    - Khung 1: quy định hình phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm áp dụng đối với trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
     
     
    - Khung 2: quy định hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm áp dụng đối với trường hợp phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn.
     
     
    - Hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
     
    Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là thiệt hại nghiêm trọng đối với tội danh này, vì vậy việc xử lý về tội danh này nếu chưa xử phạt hành chính là rất vướng mắc. Nếu có thể thì chỉ áp dụng tương tự  về hậu quả nghiêm trọng trong thiệt hại về kinh tế theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP hoặc Thông tư số 09/2013/TTLT....
  • Xem thêm     

    24/06/2015, 09:42:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật hình sự thì cơ quan công an có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý các thông tin, tin báo về tội phạm, thời hạn xử lý thông tin không quá 2 tháng. Nếu trong quá trình xác minh nguồn tin về tội phạm mà có căn cứ xác định hành vi của người bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra vụ án hình sự theo quy định. Nếu qua xác minh mà xác định vụ việc chỉ là quan hệ dân sự hoặc chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan công an sẽ quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, chủ sở hữu chiếc xe đó có quyền làm đơn tố cáo hành vi của bạn bạn tới cơ quan công an để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

    2. Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự thì nếu một người thông qua một giao dịch dân sự hợp pháp (mượn, thuê... tài sản), sau đó gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì bị xử lý về tội danh này: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Theo quy định của bộ luật dân sự thì hợp đồng mượn tài sản là việc chuyển giao quyền quản lý, sử dụng tài sản trong thời hạn do hai bên thỏa thuận. Nếu đến thời hạn trả lại tài sản mà bên mượn tài sản không trả lại đúng hạn thì bên cho mượn có quyền khởi kiện tới tòa án để đòi lại tài sản đó theo thủ tục tố  tụng dân sự. Đồng thời, chủ sở hữu tài sản có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên việc khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự ở nước ta hiện tại rất khó khăn, phức tạp.... vì vậy, khi cho người khác mượn tài sản cần cân nhắc khả năng họ có trả lại tài sản đúng hẹn hay không...

    Nếu cơ quan công an có chứng cứ chứng minh là người mượn tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản đó (thường gắn với hành vi gian dối, bỏ trốn), việc vay, mượn tài sản chỉ là cái cớ để chiếm đoạt (không có ý định trả lại tài sản) thì có thể xử lý người chiếm đoạt đó về hành vi lừa đảo theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự (nếu ý định chiếm đoạt tài sản có trước khi nhận được tài sản của người bị hại) hoặc xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS (nếu ý định chiếm đoạt tài sản có sau khi đa nhận được tài sản của người bị hại). Thực tiễn cho thấy, việc chứng minh mục đích chiếm đoạt không đơn giản (trừ trường hợp người phạm tội tự nhận tội). Ý định chiếm đoạt tài sản thường thể hiện thông qua hành động bỏ trốn, tẩu thoát, cắt đứt liên lạc với người bị hại....

    Theo quy định pháp luật thì nếu người vay tài sản, mượn tài sản có nơi cư trú cụ thể (không bỏ trốn) thì người chủ sở hữu tài sản (người cho vay, cho mượn)  có thể khởi kiện tới tòa án nơi người đang nợ tài sản đó cư trú. Nếu người vay, mượn tài sản không còn nơi cư trú cụ thể, kèm theo đó là thay đổi nơi cư trú nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả lại tài sản thì hành vi đó vi phạm pháp luật hình sự, bị xử lý về tội lừa đảo hoặc lạm dụng. Trong trường hợp trốn tránh, thay đổi nơi cư trú như vậy thì chủ sở hữu tài sản không thể khởi kiện được vụ án dân sự và có dấu hiệu tội phạm.

    Ngoài ra, điều 140 BLHS cũng quy định là mượn tài sản sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản là phạm vào tội này. Tuy nhiên, cầm cố tài sản là một giao dịch dân sự được pháp luật cho phép nên việc mượn tài sản rồi mang đi cầm cố không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu cầm cố tài sản của người khác mà không được người đó cho phép sau đó bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả lại tài sản thì mới bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Pháp luật quy định bên cầm cố tài sản phải là chủ sở hữu hoặc người khác được chủ sở hữu ủy quyền. Nếu người không phải là chủ sở hữu tài sản, không được chủ sở hữu tài sản cho phép mà mang tài sản đó đi cầm cố thì giao dịch cầm cố tài sản đó vô hiệu.

    Vì vậy, nếu chủ xe báo công an mà bạn của bạn không bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì chưa có căn cứ để xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cũng cần lưu ý là với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bỏ trốn chỉ là một dấu hiệu, đi kèm với hành vi bỏ trốn thì cơ quan công an phải chứng minh được mục đích chiếm đoạt "bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản" thì mới có thể khởi tố về tội danh này.

  • Xem thêm     

    22/06/2015, 11:02:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì hụi, họ là giao dịch dân sự được pháp luật cho phép hoạt động. Nếu người nào đó lợi dụng quan hệ dân sự đó để chiếm đoạt tài sản của người khác thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, nếu cơ quan điều tra có căn cứ chứng minh mẹ bạn có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc bỏ trốn nhằm trốn tránh trách nhiệm trả tiền thì có thể bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

    Nếu cơ quan điều tra không chứng minh được mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản thì giao dịch của mẹ bạn chỉ là quan hệ dân sự.

  • Xem thêm     

    21/06/2015, 11:20:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo nội dung câu chuyện bạn kể ở trên thfi ông A có thể bị xử lý về tội cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự nếu chiếc điện thoại của ông B trị giá từ 2 triệu đồng trở lên. Nếu không có chứng cứ chứng minh ông B và vợ ông A có quan hệ tình cảm thì ông A còn có thể bị xử lý về hành vi vu khống theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    21/06/2015, 11:11:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Sự việc đó là quan hệ dân sự, chưa tới mức xử lý hình sự. Nếu bạn đó không trả được nợ và có đơn tố cáo tới công an và nhà trường thì bạn này chỉ bị khiển trách, nhắc nhở. Bạn đó nên sớm trả nợ cho chủ quán đó.

  • Xem thêm     

    21/06/2015, 05:56:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Thông tư số 06/2013/TTLT thì thời gian kiểm tra xác minh nguồn tin về tội phạm là 20 ngày, với những vụ việc phức tạp thì thời gian có thể kéo dài hơn nhưng không quá 02 tháng. Vì vậy, kết thúc thời gian nêu trên thì công an sẽ trả lời gia đình bạn là vụ việc có xử lý hình sự hay không và xử lý đối với ai. Nếu không đồng ý với quyết định của cơ quan điều tra thì anh bạn có quyền khiếu nại theo quy định của bộ luật hình sự.

    Để tránh việc sai lệch có thể xảy ra thì gia đình bạn có thể chụp lại ảnh hiện trường, tìm nhân nhứng để thu thập chứng cứ. Đồng thời, có quyền yêu cầu cơ quan công an tiến hành giám định tỉ lệ thương tật của những người tham gia giao thông đó.  

  • Xem thêm     

    17/06/2015, 10:28:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Hành vi của Thùy là mượn sổ đỏ mang đi cầm cố không phải là hành vi phạm tội bởi sổ đỏ không phải là tài sản theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 tài sản bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá (như trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu...) và các quyền tài sản (như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng...).

    Vì vậy, các hành vi liên quan tới lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để lấy sổ đỏ của người khác sẽ không bị xử lý về hình sự. Nếu hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, tiền hoặc các tài sản khác được mô tả theo Điều 163 BLDS thì mới có thể cấu thành tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Gia đình bạn có thể thông báo mất sổ đỏ và làm thủ tục để xin cấp lại sổ đỏ theo quy định của pháp luật.

    Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự như sau:

    "

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây: Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      đ) Tái phạm nguy hiểm;
      e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm :
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    ".

    Căn cứ vào quy định pháp luật trên thì nếu có căn cứ xác định chị Thúy đã nhận tài sản (những tài sản được mô tả tại Điều 163 BLDS) sau đó gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới có thể xử lý chị Thúy về tội lừa đảo theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên.

  • Xem thêm     

    17/06/2015, 10:12:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì người đang nợ tiền gia đình bạn đã có hành vi gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích. Vì vậy, gia đình bạn có quyền làm đơn để trình báo toàn bộ sự việc đến cơ quan công an tại địa phương để được xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu người nhà của gia đình bạn có thương tích đạt tỉ lệ theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự thì đối tượng đó sẽ bị xử lý hình sự theo quy định sau đây:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
      a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
      b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
      c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
      d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
      đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Có tổ chức;
      g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
      h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
      i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
      k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.".

     

    Nếu không đủ mức độ tổn hại sức khỏe để xử lý hình sự thì đối tượng đó sẽ bị xử lý hành chính theo  quy định tại Điều 5, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau:

     

    " Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

     

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;

    c) Thả rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả "đèn trời";

    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

    b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

    c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;

    d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;

    đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế;

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;

    g) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

    h) Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức;

    i) Tập trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực cấm;

    k) Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    l) Viết, phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, cá nhân;

    m) Tàng trữ, vận chuyển "đèn trời".

    4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;

    b) Sản xuất, nhập khẩu, buôn bán "đèn trời".

    5. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a, l, m Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.

    6. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điểm k Khoản 3 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ".

    2. Thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin theo quy định tại Điều 103 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Thông tư liên tích số 06/2013/TTLT là 20 ngày, thời gian xác minh có thể gia hạn với vụ việc phức tạp nhưng không quá hai tháng. Nếu cơ quan công an giải quyết không thỏa đáng hoặc quá thời hạn nêu trên thì bạn có thể khiếu nại theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/06/2015, 09:49:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Thông tin bạn trình báo với công an là tin báo về tội phạm. Căn cứ vào tin báo của bạn thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin theo quy định pháp luật. Khi có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và phát lệnh truy nã với đối tượng đó.

    2. Đối với chiếc xe của bạn thì sau khi khởi tố vụ án,  thì cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, cụ thể như sau:

    Điều 41 BLHS quy định về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, như sau:

    "1. Việc tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với:

    a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

    b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;

    c) Vật  thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

    2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.

    3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.”

     

    Điều 76 BLTTHS năm 2003 có quy định về xử lý vật chứng, cụ thể:

    “1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.

    2. Vật chứng được xử lý như sau:

    a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;

    b) Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;

    c) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;

    d) Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật;

    đ) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.

    3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền quyết định trả lại những vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.

    4. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”".

    Trong trường hợp không đủ căn cứ xử lý hình sự thì cơ quan công an cũng có trách nhiệm trả lại chiếc xe trên cho bạn. Vì vậy, bạn có thể làm đơn yêu cầu cơ quan công an trả lại tài sản cho bạn theo các quy định pháp luật trên.

  • Xem thêm     

    13/06/2015, 07:55:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì hành vi đột ngột bẻ lái, chuyển hướng của chiếc xe tải đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ việc tai nạn cho bạn, hậu quả như vậy là nghiêm trọng. Việc tiếp theo là xem xét nguyên nhân của việc chuyển hướng xe đó, nếu nguyên nhân là từ xe đi ngược chiều chạy ẩu, xe tải không còn cách nào khác là tránh xe ngược chiều thì sự việc đó có thể cho là bất khả kháng. Nếu xe tải, phóng nhanh, vượt ẩu, không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ... là nguyên nhân chính dẫn đến hậu quả tai nạn thì người lái chiếc xe này sẽ bị khởi tố về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự. Tóm lại, hậu quả như bạn trình bày ở trên là hậu quả nghiêm trọng, vấn đề còn lại là xem xét lỗi của người lái xe. Nếu người lái xe tải có lỗi, là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả tai nạn cho bạn và bạn gái bạn thì người đó sẽ bị khởi tố hình sự.

    2. Nếu có chứng cứ chứng minh là người lái xe tải sau khi gây tai nạn còn lùi xe để nhằm mục đích cán chết nạn nhân thì người lái xe đó sẽ bị xử lý về tội giết người theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Bạn có thể trình bày toàn bộ nội dung sự việc với cơ quan công an để được xem xét, giải quyết. Đồng thời có thể yêu cầu triệu tập những người làm chứng cung cấp thông tin về sự việc đó để đảm bảo tính khách quan và làm căn cứ để giải quyết vụ án.

    3. Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm là trong quá trình giải quyết vụ án mà không xác định được lỗi của lái xe tải, mà lại xác định nguyên nhân tai nạn là do bạn chạy sai phẩn đường, không làm chủ tốc độ... thì bạn mới là người sẽ bị xử lý hình sự.

  • Xem thêm     

    09/06/2015, 09:34:57 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:


    Theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật hình sự luật Việt Nam thì một người chỉ có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án có thẩm quyền. Khi bị khởi tố, truy tố, xét xử thì họ vẫn chỉ là NGHI CAN. Về nguyên tắc suy đoán vô tội thì họ có thể không có tội, hiện tại chỉ là người bị tình nghi. Vì vậy, việc kỉ luật buộc thôi việc là chưa có cơ sở pháp lý.

    Việc kỉ luật cán bộ, công chức được thực hiện theo Luật cán bộ, công chức và quy định tại Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, theo đó hình thức kỉ luật buộc thôi việc được áp dụng trong các trường hợp sau:

    "Điều 14. Buộc thôi việc

    Hình thức kỷ luật buộc thôi việc áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:

    1. Bị phạt tù mà không được hưởng án treo;

    2. Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị;

    3. Nghiện ma túy có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền;

    4. Tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm việc trở lên trong một tháng hoặc từ 20 ngày làm việc trở lên trong một năm mà đã được cơ quan sử dụng công chức thông báo bằng văn bản 03 lần liên tiếp;

    5. Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức.".

    Nếu trong quá trình điều tra, xét thấy việc tiếp tục để cán bộ, công chức đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thì sẽ ảnh hưởng tới kết quả điều tra hoặc ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan đơn vị thì có thể chuyển người đó làm công việc khác hoặc tạm đình chỉ công tác theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    29/05/2015, 10:43:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Với vụ án tai nạn giao thông xử lý theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự thì khi đã có cáo trạng của Viện Kiểm sát thì trong khoảng thời gian 02 tháng, tòa án sẽ xét xử vụ án đó, trừ trường hợp tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn mới có thể kéo dài hơn.

  • Xem thêm     

    28/05/2015, 11:59:18 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

    "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.'.

    Như vậy theo quy định pháp luật nêu trên thì tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS) không thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Vì vậy, nếu phát hiện trường hợp hiếp dâm trẻ em thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật mà không cần có yêu cầu của gia đình bị hại, Việc gia đình bị hại không yêu cầu, hoặc rút đơn không làm ảnh hưởng tới việc giải quyêt vụ án.

     

    Tuy nhiên, gia đình có thể yêu cầu tòa án xét xử kín vụ án hiếp dâm trẻ em. Theo quy định pháp luật thì việc lấy lời khai trong vụ việc này cũng hạn chế, thủ tục bắt buộc phải có người giám hộ... để tránh tổn thương thêm cho bị hại.

    Bộ luật hình sự quy địnhh về hình phạt với tội hiếp dâm trẻ em như sau:

    "Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em

    1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
      a) Có tính chất loạn luân;
      b) Làm nạn nhân có thai;
      c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
      d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
      đ) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
      a) Có tổ chức;
      b) Nhiều người hiếp một người;
      c) Phạm tội nhiều lần;
      d) Đối với nhiều người;
      đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
      e) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
      g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
    4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ mười ba tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".
  • Xem thêm     

    23/05/2015, 09:38:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! 

    Bạn không nên mua những chiếc xe không rõ nguồn gốc như vậy. Trong trường hợp nêu trên, bạn có thể trình báo sự việc với công an để xem xét giải quyết...

  • Xem thêm     

    16/05/2015, 12:09:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!


    Vấn đề bồi thường thiệt hại cán bộ, công chức Nhà nước gây ra được xem xét trên cơ sở pháp lý là: Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/3003 của Ủy ban thường vụ quốc hội ; và Luật bồi thường trách nhiệm của Nhà nước năm 2009.

     

    Nghị quyết 388 quy định: 

    Điều 18. Áp dụng Nghị quyết để giải quyết bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp bị oan

    1. Nghị quyết này được áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại đối với những người thuộc các trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này mà có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật từ ngày 01 tháng 7 năm 1996 của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó bị oan.

    2. Đối với những người thuộc các trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này mà có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trước ngày 01 tháng 7 năm 1996 của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó bị oan mà đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị oan hoặc thân nhân của người bị oan đã được cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự tiếp nhận trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết, thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.

    3. Đối với những người bị oan đã được bồi thường thiệt hại trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì không áp dụng Nghị quyết này để giải quyết lại.

    Điều 19. Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại

    1. Đối với những người thuộc các trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này, trong thời gian từ ngày 01 tháng 7 năm 1996 cho đến trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định bị oan, thì thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giải quyết việc bồi thường là hai năm, kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực.

    2. Đối với những người có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định bị oan từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực, thì thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giải quyết việc bồi thường là hai năm, kể từ ngày bản án, quyết định trên có hiệu lực pháp luật.". 

     

    Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định:

     

    "Điều 66. Điều khoản chuyển tiếp

    1. Các trường hợp yêu cầu bồi thường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thụ lý nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết theo Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra hoặc Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết.

    2. Các trường hợp được bồi thường theo Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra đến thời điểm Luật này có hiệu lực mà còn thời hiệu theo quy định của các văn bản này nhưng chưa yêu cầu Nhà nước bồi thường hoặc đã yêu cầu nhưng chưa được thụ lý thì áp dụng các quy định của Luật này để giải quyết.".

     

    Như vậy, theo các quy định pháp luật nêu trên thì vụ việc của ông bạn xảy ra trước thời điểm 01/76/1996 nên căn cứ vào Điều 19, Nghị quyết 388 thì ông bạn không được áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại để giải quyết.

  • Xem thêm     

    02/05/2015, 03:15:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu có căn cứ xác định bác sĩ của bệnh viện đó đã có lỗi trong quá trình điều trị dẫn đến gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của bênh nhân thì gia đình bệnh nhân có quyền yêu cầu bệnh viện phải bồi thường thiệt hại, nếu không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện tới tòa án để được giải quyết theo quy định pháp luật. Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để giải quyết.

    Bạn tham khảo một số vụ việc sau đây:

    http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/benh-vien-boi-thuong-450-trieu-dong-cho-gia-dinh-san-phu-tu-vong-3175392.html

  • Xem thêm     

    01/05/2015, 11:43:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Vụ việc của bạn có dấu hiệu của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bạn có thể làm đơn trình báo toàn bộ sự việc và cung cấp thông tin, vật chứng cho công an phường hoặc công an quận nơi bạn giao tiền cho đối tượng đó để được xem xét giải quyết.

69 Trang «<567891011>»