Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    08/12/2011, 12:43:57 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Nếu công ty sa thải bạn trái pháp luật bạn thì phải nhận bạn trở lại làm việc và bồi thường thiệt hại cho bạn theo quy định của Bộ luật lao động hiên hành.
    2. Việc công ty không tham gia vụ án, không cung cấp chứng cứ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cụ thể BLTTDS quy định về chứng cứ và chứng minh như sau:

    Điều 84. Giao nộp chứng cứ

    1. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.

    3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.

     

    Điều 85. Thu thập chứng cứ

    1. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.

    2. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:

    a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;

    b) Trưng cầu giám định;

    c) Quyết định định giá tài sản;

    d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;

    đ) Uỷ thác thu thập chứng cứ;

    e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.

    3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Toà án.

    Đương sự có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án. Khiếu nại của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự và xem xét việc tham gia phiên toà.

    Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.

    3.  Nếu có lý do bất khả kháng mà đương sự không thể có lời khai tại Tòa án hoặc có lời khai nhưng chưa đầy đủ thì Tòa án có thể tiến hành lấy lời khai theo quy định pháp luật sau đây:

    Điều 86. Lấy lời khai của đương sự

    1. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.

    2. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Toà án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Toà án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.

    3. Việc lấy lời khai của đương sự thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 57 của Bộ luật này phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.

    Do vậy, nghĩa vụ của bạn lúc này là thực hiện đúng các yêu cầu tố tụng của tòa án và cung cấp đầy đủ chứng cứ để Tòa án giải quyết theo pháp luật. Nếu công ty chống đối thì họ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vụ án đã được Tòa án thụ lý thì bạn hãy tuân thủ pháp luật và chờ tòa án giải quyết. Nếu công ty muốn thỏa thuận với bạn để giải quyết vụ án thì bạn cũng phải cân nhắc về sự thỏa thuận đó trước khi quyết định.



  • Xem thêm     

    08/12/2011, 12:18:00 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi rất hiểu và thông cảm với những bức xúc của gia đình bạn, tôi xin trả lời bạn như sau:
            1. Việc Thông cáo đề ngày 29/11/2011 nhưng đến ngày 05/12/2011 mới đến tay gia đình bạn là do có sự chậm trễ trong việc chuyển giao văn bản của cán bộ Ủy ban. Tuy nhiên, lỗi đó cũng là nhỏ, có thể bỏ qua được. Văn bản đó chỉ có giá trị pháp lý đối với gia đình bạn kể từ thời điểm gia đình bạn nhận được văn bản;
            2. Có thể có nhiều nguồn thông tin về một sự việc nhưng thông tin bằng văn bản theo đúng thủ tục hành chính mới có giá trị pháp lý, còn trả lời bằng miệng thì khó mà "tin" được. Thực tế pháp luật không quy định tranh chấp đất đai phải hòa giải bao nhiêu lần thì mới được khởi kiện (Điều 135 Luật đất đai) do vậy, chỉ cần hòa giải một lần không thành hoặc các bên không đến hòa giải theo giấy triệu tập của UBND cấp xã là vụ việc có thể chuyển đến Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền (Điều 136 Luật đất đai). Trong vụ việc của bạn mới chỉ giải quyết theo thủ tục hành chính. Do vậy, nếu thấy việc giải quyết, hướng dẫn, hòa giải của UBND các cấp không thỏa đáng thì gia đình bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện một vụ án dân sự để Tòa án giải quyết mà không cần phải chờ thêm một buổi hòa giải nào khác.
  • Xem thêm     

    08/12/2011, 12:04:15 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
           1. Cả hai cách mà bạn nêu trên (chuyển nhượng, tặng cho) đều là định đoạt tài sản và sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho bạn và chứa đựng mầm mống mâu thuẫn. Sau khi thủ tục hoàn tất thì bạn mất quyền sở hữu tài sản đó. Nếu mẹ vợ bạn chết thì 1/2 tài sản đó sẽ thuộc về các thừa kế của mẹ vợ bạn chứ bạn cũng không có quyền thừa kế theo pháp luật (trừ trường hợp mẹ bạn viết di chúc cho bạn);
          2. Tôi cũng rất thông cảm với bạn là các cụ già thường hay "lo xa" và "cả nghĩ." Tuy nhiên, trong tình huống của bạn thì bạn chỉ nên chọn một trong hai cách là viết giấy nhận nợ hoặc lập biên bản thỏa thuận về tài sản để "cụ già" giữ làm tin (kèm theo Sổ đỏ đưa cho "cụ"). Còn việc sang tên thì bạn phải cân nhắc cho kỹ kẻo lại làm sự việc thêm phức tạp và càng tăng thêm mâu thuẫn. Tôi cũng đã gặp những tình huống như của gia đình bạn và tôi luôn hướng dẫn khách hàng chọn một trong hai cách xử lý đó.
          Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 11:53:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn vantcqt!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1.  Đối với tài sản:

    * Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc chia tài sản khi ly hôn như sau: "Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề  nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết."

           Như vậy, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong việc phân chia tài sản. Nếu các bên không thể thỏa thuận được với nhau và có yêu cầu thì Tòa án mới giải quyết theo quy định tại Khoản 2, Điều 95 LHN&GĐ.

      * Về phương thức phân chia tài sản thì vợ chồng bạn hoàn toàn có quyền tự thỏa thuận bằng nhiều cách:

    -                      Một bên nhận toàn bộ tài sản là hiện vật và thanh toán giá trị bằng tiền cho bên kia;

    -                      Mỗi bên nhận một số lượng hiện vật nhất định, hiện vật bên nào giá trị nhiều hơn thì thanh toán phần chênh lệch cho bên kia để đảm bảo công bằng theo kiểu “chia đều”;

    -                      Bán tất cả tài sản và chia bằng tiền theo tỷ lệ công sức hoặc chia đôi bằng nhau

    -                      Một bên không nhận gì và cho bên kia toàn bộ tài sản (thực tế có xảy ra trường hợp như vậy)…

    Có thể còn nhiều cách khác mà các bên có thể tự thỏa thuận miễn là thỏa thuận đó tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền định đoạt tài sản và phù hợp với quy định về đăng ký quyền sở hữu tài sản (đối với những loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu).

           Nếu các bên không thể thỏa thuận được phương thức phân chia và giá trị tài sản chung và có yêu cầu thì Tòa án mới phải giải quyết, khi đó tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết như đã nói ở trên.

    2. Đối với con cái:

    - Nếu tài sản trong gia đình có sự đóng góp công sức của con trong việc duy trì bảo quản, phát triển tài sản thì phải chia một phần tài sản cho con căn cứ trên công sức đóng góp cụ thể. Nếu các con còn nhỏ, chỉ ăn học, tiêu tốn... mà không có công sức đóng góp, tạo lập tàn sản chung của bố mẹ thì con không được chia tài sản.

    - Về nguyên tắc cấp dưỡng thì sẽ căn cứ vào nhu cầu thực tế học hành, sinh hoạt của con ở địa phương đó, dựa vào mức sống bình quân ở địa phương và khả năng thực tế của người phải cấp dưỡng thì Tòa án sẽ quyết định mức cấp dưỡng. Nếu các bên thỏa thuận với nhau được về việc cấp dưỡng thì Tòa án sẽ tôn trọng sự thỏa thuận đó.

  • Xem thêm     

    07/12/2011, 11:28:54 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì. Chào bạn!
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 11:28:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Bạn có thể tham khảo nội dung tư vấn của bạn DTTTXH ở trên!
  • Xem thêm     
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 01:11:28 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của ban như sau:
    1. Trước tiên gia đình bạn nên cứu chữa cho người nhà, yêu cầu giám định thương tật, đồng thời trình báo toàn bộ sự việc với công an để được giải quyết;
    2. Người gây tai nại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho người nhà bạn;
    3. Nếu có dấu hiệu hình sự thì người gây tai nại sẽ bị khởi tố theo quy định tại Điều 202 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hạinghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

             Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTPTAND tối cao hướng dẫn cụ thể như sau:

          "Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết hai người;

    b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

    4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết ba người trở lên;

    b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%.

    e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên."
              Theo thông tin bạn nêu thì người gây tai nại rất có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS và phải bồi thường cho nạn nhân theo quy định pháp luật (tiền cứu chữa, phục hồi sức khỏe, thu nhập bị mất, giảm sút...).
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 01:01:37 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn thutrang68!
    Bạn có thể chọn 1 trong 2 giải pháp sau:
    1. Bạn có thể xin cấp lại GCN QSD đất (với lý do rách, hỏng mất, đổi mẫu giấy..) đồng thời đính chính lại thông tin về nơi cư trú trong GCN;
    2. Bạn có thể giữ nguyên GCN QSD đất đó, khi chuyển nhượng cần có thêm một giấy xác nhận của công an huyện về việc thay đổi hộ khẩu để bổ sung vào hồ sơ sang tên là xong.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 12:56:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nội dung câu hỏi của bạn, Luật sư Đặng Văn Cường trả lời như sau:
             Quyền sử dụng đất là của vợ chồng bạn, ngôi nhà do vợ chồng bạn xây và mẹ vợ bạn có góp một phần tiền để xây ngôi nhà trên. Do vậy,  về lý thì Quyền sử dụng đất là tài sản của vợ chồng bạn nhưng ngôi nhà là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của mẹ vợ bạn và vợ chồng bạn: Nếu vợ chồng bạn ly hôn hoặc có tranh chấp về quyền sở hữu nhà thì giá trị ngôi nhà đó có thể được chia ra và trả lại một phần cho mẹ vợ bạn.
             Tuy nhiên, đến nay nhà đất đó đã được cấp GCN QSD đất và QSH nhà ở đứng tên vợ chồng bạn nên "không ai" lại đưa thêm tên mẹ vợ bạn vào GCN QSH nhà ở cho "phức tạp". Thực tế cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng không thực hiện việc đính chính lại Giấy chứng nhận theo yêu cầu của gia đình bạn.
             Nếu mẹ vợ bạn thấy "không yên tâm" khi để vợ chồng bạn đứng tên thì bạn có thể lựa chọn hai giải pháp sau:
    1. Viết giấy nhận nợ đối với khoản tiền mẹ vợ bạn đã góp và có phương hướng trả nợ cho dứt điểm, rõ ràng, tách bạch;
    2. Lập biên bản thỏa thuận ngôi nhà đó là tài sản chung có công chứng hoặc chứng thực chữ ký của các bên để mẹ bạn cầm làm tin phòng khi "bất trắc";
    3. Bạn cũng có thể lập biên bản thỏa thuận tài sản chung đối với ngôi nhà đó, công chứng biên bản thỏa thuận và tiến hành thủ tục ghi thêm tên mẹ vợ bạn vào GCN với tư cách là đồng sở hữu nhà. Làm như vậy cũng không trái luật nhưng ít khi được cơ quan TN&MT thực hiện thủ tục sang tên. Do vậy, bạn nên chọn giải pháp 1 hoặc giải pháp 2.
  • Xem thêm     

    07/12/2011, 12:21:22 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn BachThanhDC! Chào bạn vietducls!
    Thông tư liên tịch số121/2007/TTLT-BQP-BGDĐT được thay thế bởi Thông tư liên tịch số175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT của Bộ quốc phòng va Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 13/9/2011 và có hiệu lực kể từ ngày 30/10/2011.

    Điều 2 Thông tư liên tịch số 175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT quy định như sau:

    "1. Đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ:

    a) Công dân có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ và học viên là hạ sĩ quan, binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng.

    b) Công dân đang học tập tại các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập trung gồm:

    - Trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng khiếu, dự bị đại học;

    - Trường trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề;

    - Các đại học, trường cao đẳng, trường đại học;

    - Học viện, viện nghiên cứu có nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và tương đương;

    - Các trường của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.

    c) Học viên đang học tập trung theo chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở hoặc cấp trung học phổ thông tại các cơ sở giáo dục.

    d) Công dân đi du học tại các trường ở nước ngoài có thời gian đào tạo mười hai tháng trở lên.

    2. Công dân nêu tại điểm b, điểm c, điểm d khoản 1 Điều này chỉ được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong một khoá đào tạo tập trung đầu tiên, trường hợp tiếp tục học tập ở các khoá khác thì không được tạm hoãn gọi nhập ngũ.

    - Thời gian một khóa đào tạo tập trung được tính từ ngày nhà trường quy định có mặt nhập học (ghi trong giấy báo nhập học) đến khi tốt nghiệp khoá học.

    - Một khoá học chỉ thực hiện ở một trình độ đào tạo, trường hợp đào tạo liên thông phải liên tục không gián đoạn.

    3. Những công dân sau đây không thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Theo học các loại hình đào tạo khác ngoài quy định tại khoản 2 Điều này;

    b) Đang học nhưng bị buộc thôi học;

    c) Tự bỏ học hoặc ngừng học tập một thời gian liên tục từ sáu tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;

    d) Hết thời hạn học tập tại trường một khoá học;

    đ) Chỉ ghi danh, đóng học phí nhưng thực tế không học tại trường;

    4. Hàng năm, những công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định tại khoản 1 Điều này phải được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ. Công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ nếu tình nguyện thì có thể được tuyển chọn, gọi nhập ngũ:".
              Trường hợp của bạn có thể được cấp bằng chính quy nhưng không phải là hình thức đào tạo TẬP TRUNG nên không thuộc diện được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự theo quy định pháp luật. Hình thức học Tại chức, Liên thông, Văn bằng hai, từ xa... không phải là học tập trung.
  • Xem thêm     

    06/12/2011, 09:55:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Nếu bạn ở khác tỉnh với chủ xe cũ thì bạn không thể giữ biển số cũ, bạn buộc phải đăng ký và xin cấp lại biển số mới theo địa phương bạn.
    - Nếu bạn chưa thực hiện thủ tục mua bán, sang tên thì về mặt pháp lý chiếc xe đó vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ cũ. Do vậy, có quan công an có thể giữ xe và yêu cầu chủ sở hữu xe đến làm việc (để xác định nguồn gốc có phải là xe gian hay không).
  • Xem thêm     

    06/12/2011, 09:52:07 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 11, Nghị định số số 110/2004/NĐ-CP ngày 08-4-2004 của Chính phú về công tác văn thư quy định bản sao văn bản như sau:

    "1. Các hình thức bản sao được quy định tại Nghị định này gồm bản sao y bản chính, bản trích sao và bản sao lục.

    2. Thể thức bản sao được quy định như sau:

    Hình thức sao: sao y bản chính hoặc trích sao, hoặc sao lục; tên cơ quan, tổ chức sao văn bản; số, ký hiệu bản sao; địa danh và ngày, tháng, năm sao; chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền; dấu của cơ quan, tổ chức sao văn bản; nơi nhận.

    3. Bản sao y bản chính, bản trích sao và bản sao lục được thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định này có giá trị pháp lý như bản chính.

    4. Bản sao chụp cả dấu và chữ ký của văn bản không được thực hiện theo đúng thể thức quy định tại khoản 2 của Điều này, chỉ có giá trị thông tin, tham khảo."

              Như vậy, pháp luật quy định bản sao có giá trị như bản chính và thay có thể thay thế bản chính. Khi bản chính còn hiệu lực thì bản sao vẫn còn hiệu lực. Không có văn bản pháp luật nào quy định thời hạn có hiệu lực của bản sao y. Theo quy định của pháp luật thì bản sao cũng có giá trị chứng minh và được coi là chứng cứ (bất kể bản sao y đó được sao tại thời điểm nào). Tuy nhiên, thực tế có một số cơ quan do nhận thức pháp luật yếu kém nên đã ban hành những quy định nội bộ trái luật như không nhận bản sao mà bắt phải nộp bản chính thì mới thực hiện thủ tục, hoặc bản sao phải trong thời hạn 6 tháng mới chấp nhận! Đó là những quy định máy móc và gây phiền hà cho người dân.
              Bạn cứ xuất trình bản sao xem cán bộ có thẩm quyền giải thích ra sao? Nếu họ cho rằng bản sao đó không còn hiệu lực thì bạn yêu cầu họ chỉ ra căn cứ pháp lý (có thể là quy định nội bộ do thủ trưởng cơ quan đó tự đặt ra ?!).
  • Xem thêm     

    06/12/2011, 09:28:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
          Theo luật thì thời gian chuẩn bị xét xử vụ án ở cấp sơ thẩm tối đa không quá 6 tháng (Điều 179 BLTTDS). Tuy nhiên ở nước ta hiện nay những vụ án tranh chấp dân sự kéo dài 5, 6 năm không phải là ít (do đương sự không chịu "hiểu luật" hoặc người tiến hành tố tụng không muốn áp dụng luật...)...
          Do vậy, cái BỨC XÚC của bạn cũng dễ hiểu đối với thời kỳ "quá độ" ở nước ta hiện nay. Vấn đề của bạn là phải chỉ ra cái BỨC XÚC cụ thể để luật sư có thể tháo gỡ giúp bạn. 
  • Xem thêm     

    06/12/2011, 01:07:56 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự quy định thời gian Tòa án chuẩn bị xét xử vụ án ở cấp sơ thẩm là 4 tháng kề từ ngày thụ lý vụ án. Trong trường vụ án có tính chất phức tạp, cần thời gian giải quyết thì Chánh án có thể gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng nữa. 
            Thực tế, nếu vụ việc không phức tạp, các đương sự đều hợp tác và cung cấp chứng cứ đầy đủ thì mới đảm bảo thời gian theo Điều 179 BLTTDS. Còn nếu vụ án phức tạp,  nhiều đương sự, đương sự chống đối... thì có khi phải "nhiều năm" mới xong!.
  • Xem thêm     

    06/12/2011, 12:38:23 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Thông tư liên tịch số 121/2007/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 07 tháng 08 năm 2007 của Bộ quốc phòng và bộ giáo dục và đào tạo HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 38/2007/NĐ-CP NGÀY 15 THÁNG 3 NĂM 2007 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TẠM HOÃN GỌI NHẬP NGŨ VÀ MIỄN GỌI NHẬP NGŨ THỜI BÌNH ĐỐI VỚI CÔNG DÂN NAM TRONG ĐỘ TUỔI GỌI NHẬP NGŨ quy định như sau:

    Những công dân nam sau đây được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành hoặc đang học tập tại các trường quân đội và các trường ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng.

    b) Học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định tại khoản 1 Điều 48 của Luật giáo dục năm 2005 theo hình thức giáo dục chính quy, bao gồm:

    - Trường trung học phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng khiếu, dự bị đại học;

    - Trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng nghề, trường trung học nghề;

    - Trường cao đẳng, đại học.

    c) Học sinh, sinh viên đang học tại các nhà trường của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép đầu tư trên lãnh đạo Việt Nam hoặc học sinh, sinh viên được đi du học tại các trường ở nước ngoài có thời gian đào tạo mười hai tháng trở lên.

    d) Học sinh, sinh viên nêu tại điểm b và điểm c khoản 1 mục II Thông tư này chỉ được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong một khóa đào tạo tập trung đầu tiên, nếu tiếp tục học tập ở các khóa khác thì không được tạm hoãn gọi nhập ngũ.

    đ) Hàng năm, những công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định tại khoản 1 mục II Thông tư này phải được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ.

    2. Những học sinh, sinh viên sau đây không thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Theo học các loại hình đào tạo khác ngoài quy định tại điểm b khoản 1 mục II Thông tư này;

    b) Đang học nhưng do vi phạm kỷ luật đã bị đuổi học, buộc thôi học;

    c) Tự bỏ học hoặc ngừng học tập một thời gian liên tục từ 12 tháng trở lên;

    d) Hết thời hạn học tập tại trường một khóa học;

    đ) Chỉ ghi danh, đóng học phí nhưng thực tế không học tại trường.”.

            Như vậy, bạn đang học tại chức thì không thuộc diện được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    05/12/2011, 10:58:43 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Gia đình bạn có thể thỏa thuận với Ngân hàng về biện pháp xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ (Ngân hàng được phép phát mại tài sản để thu hồi nợ nếu gia đình bạn đồng ý chứ không được thu hồi nhà của gia đình bạn). Nếu đã thỏa thuận thì phải tôn trọng thỏa thuận giữa các bên. Nếu không thỏa thuận được thì một trong các bên có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để thanh toán khoản nợ tín dụng đó. Giá trị tài sản đảm bảo sẽ được xác định cụ thể tại thời điểm thi hành án (nếu thừa thì gia đình bạn được nhận lại).
           Do vậy, nếu Ngân hàng không tôn trọng thỏa thuận với gia đình bạn thì gia đình bạn có thể khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng, bảo lãnh để Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
  • Xem thêm     

    05/12/2011, 10:46:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

          Theo tôi trong tình huống này hành vi " dùng tay để tát vào mặt người đó để đe dọa rồi cướp điện thoại di động trị giá 875.000 ngàn. Nhưng cướp không thành công vì người bị hại đã truy hô và có người đến. 3 người đã bỏ chạy và không gây thương tích cho người bị hại." đã đủ dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS chứ không phải là tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 BLHS, bởi:
           Đối với tội cướp giật tài sản là lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận chủ sở hữu tài sản để chiếm đoạt và lẩn tránh. Còn trong tình huống này các bị cáo đã dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của nạn nhân chứ không phải là "lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận chủ sở hữu tài sản để chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát". Do vậy, nếu có thêm tình tiết giảm nhẹ thì có thể kháng cáo để xin giảm hình phạt còn nếu kháng cáo để chuyển tội danh thành tội cướp giật tài sản thì có vẻ không khả thi.
  • Xem thêm     

    05/12/2011, 10:16:10 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nguyên tắc hình thành các giấy tờ tùy thân như sau: Giấy khai sinh -> Hộ khẩu -> Chứng minh thư nhân dân....
            Do vậy, nếu đúng luật thì mọi giấy tờ của bạn phải sửa cho đúng nội dung ghi trong giấy khai sinh gốc. Tuy nhiên, Hộ khẩu và CMND thì sửa không khó nhưng những bằng cấp, giấy tờ tùy thân khác thì không dễ sửa. Nên nếu có thể "linh động" để sửa cho đúng với "học bạ" là cách tốt nhất. Việc này bạn phải tuân theo sự hướng dẫn của các "chuyên gia" là công an và cán bộ hộ tịch, hộ khẩu.
  • Xem thêm     

    05/12/2011, 10:02:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn o_nguyenthanh!
            Nội dung vụ việc như bạn trình bày thì rõ ràng Tòa án đã không khách quan và vi phạm tố tụng. Bạn có quyền kháng cáo và Tòa án cấp phúc thẩm sẽ giải quyết lại vụ án. Nếu tòa án cấp sơ thẩm đã đo vẽ hiện trạng nhà đất tranh chấp không đúng thì bạn có thể yêu cầu Tòa án phúc thẩm đến xem xét thẩm định tại chỗ để tìm ra sự thật khách quan.
            Bạn cũng có thể thuê một công ty đo đạc có tư cách pháp nhân, có chức năng đo vẽ sơ đồ kỹ thuật thửa đất để đến hiện trạng đo vẽ lại toàn bộ hai thửa đất đó. Sơ đồ kỹ thuật thửa đất này sẽ khách quan và chính xác hơn là bản vẽ do cán bộ địa chính đo vẽ ở cấp sơ thẩm.
            Sau khi có kết quả đo vẽ, kiểm tra lại hiện trạng nhà đất, Tòa án phúc thẩm sẽ đối chiếu với các giấy tờ sở hữu để biết ai lấn chiếm của ai và giải quyết vụ án đúng pháp luật để trả lại sự công bằng cho gia đình bạn.
    Chúc bạn thành công!