Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    01/12/2011, 03:42:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, Cảm ơn Luật sư Dương Văn Mai. Hi vọng những bài tư vấn của các Luật sư sẽ giúp mọi người nâng cao nhận thức pháp luật và giải quyết được vướng mắc pháp lý đã phát sinh.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 12:07:23 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Khi đến lấy xe thì bạn có thể mang hộ chiếu (nếu có) hoặc hộ khẩu kèm theo xác nhận của Công an khu vực (đơn có dán ảnh); Nếu bạn bị giam xe thì cũng phải 30 ngày, trong khi đó làm lại chứng minh thư mất có vài ngày (làm dịch vụ thì trong ngày là lấy được) nên tốt nhất bạn nên làm lại CMND để có căn cứ chứng minh "mình là ai".
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 12:02:32 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Vụ việc ở trường bạn có nhiều biểu hiện tiêu cực. Tuy nhiên, với thông tin bạn nêu ra thì chưa đủ căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự. Bạn có thể khiếu nại tố cáo theo quy định pháp luật nhưng kết quả xử lý thế nào còn phụ thuộc vào quá trình, điều tra, xác minh của cơ quan có thẩm quyền. Bạn có thể gặp trực tiếp luật sư tại Tp Hồ Chí Minh để được tư vấn cụ thể.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 11:50:31 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Bạn đang trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự nên phải chấp hành nếu trúng tuyển. Giám đốc doanh nghiệp không phải là đối tượng được hoãn hay miễn nghĩa vụ quân sự. Bạn chỉ có thể được tạm hoãn, miễn nghĩa vụ quân sự nếu bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 29, Luật nghĩa vụ quân sự sau đây:

    "Điều 29

    1. Những công dân sau đây được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Chưa đủ sức khoẻ phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khoẻ;

    b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động;

    c) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ;

    d) Giáo viên, nhân viên y tế, thanh niên xung phong đang làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức, viên chức được điều động đến làm việc ở những vùng này;

    đ) Đang nghiên cứu công trình khoa học cấp Nhà nước được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc người có chức vụ tương đương chứng nhận;

    e) Đang học ở các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học do Chính phủ quy định;

    g) Đi xây dựng vùng kinh tế mới trong ba năm đầu.

    Hằng năm, những công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định tại khoản này phải được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ.

    2. Những công dân sau đây được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng một, con của bệnh binh hạng một;

    b) Một người anh hoặc em trai của liệt sĩ;

    c) Một con trai của thương binh hạng hai;

    d) Thanh niên xung phong, cán bộ, công chức, viên chức quy định tại điểm d khoản 1 Điều này đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng trở lên.

    3. Công dân thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ hoặc được miễn gọi nhập ngũ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nếu tình nguyện thì có thể được tuyển chọn, gọi nhập ngũ.

    4. Chính phủ quy định cụ thể vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn.
            2. Những hợp đồng kinh tế, thương mại mà bạn ký kết là nhân danh Giám đốc công ty chứ không phải là nhân danh cá nhân. Do vậy, công ty sẽ chịu trách nhiệm đối với những hợp đồng đó (công ty mới là một bên của hợp đồng chứ không phải là cá nhân bạn). Người thay thế chức vụ Giám đốc của bạn sẽ tiếp tục điều hành công ty và thực hiện các hợp đồng đã ký kết.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 11:40:11 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư đã trả lời.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 11:38:39 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Nếu bạn có cách khác để lấy được tiền nhanh hơn thì nên sử dụng cách đó (nhớ đừng vi phạm pháp luật), còn bất đắc dĩ, không thể tự mình giải quyết được mới phải trình báo công an. Thông thường những vụ việc nhỏ như: mất xe, trộm cắp vặt, lừa đảo số lượng tài sản ít.. thì công an không mấy "mặn mà" lắm bởi họ còn nhiều vụ việc quan trọng hơn phải giải quyết. Do vậy bạn hãy cân nhắc trước khi quyết định xử lý.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 11:29:26 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời như sau:

              Hiện nay, Bộ luật dân sự và Luật Thương Mại đều có quy định về phạt hợp đồng. Bộ luật dân sự không khống chế tỷ lệ phạt là bao nhiêu (hiểu theo nghĩa là "bao nhiêu cũng được" - miễn là hai bên đồng ý với nhau). Trong khi đó, tại Luật Thương mại thì qui định mức phạt vi phạm hợp đồng tối đa không quá 8% phần giá trị vi phạm (cũng có thể là giá trị hợp đồng - nếu vi phạm toàn bộ hợp đồng).

             Luật dân sự thì áp dụng cho các giao dịch dân sự (không nhằm mục đích kinh doanh) còn luật thương mại thì áp dụng cho các giao dịch thương mại (có mục đích sinh lợi).
             Vì vậy, trước tiên bạn phải xác định hợp đồng đó là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại thì mới xác định được quy định về phạt hợp đồng có đúng hay không.
             Nếu là hợp đồng thương mại mà quy định phạt hợp đồng không quá 10 % giá trị phần vi phạm là không phù hợp với Luật thương mại. Do đó khi có tranh chấp thì Tòa án chỉ chấp nhận mức bồi thường bằng 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm.
  • Xem thêm     

    01/12/2011, 11:16:19 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Khoản 3, Điều 2, Nghị định198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về tiền sử dụng đất như sau:
    "Những đối tượng phải nộp tiền sử dụng đất:
    ...
    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở mà đất đó được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa nộp tiền sử dụng đất, nay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất"/.
             Như vậy, nếu gia đình bạn sử dụng đất ở từ sau 15/10/1993 thì phải nộp tiền sử dụng đất khi Nhà nước cấp Giấy chứng nhận.       
            Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây về thu tiền sử dụng đất để biết thêm chi tiết: Nghị định SỐ44/2008/NĐ-CP ngày 09/04/2008 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của chính phủ về thu tiền sử dụng đất. Thông tư số93/2011/TT-BTC ngày29/6/2011 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THÔNG TƯ SỐ117/2004/TT-BTC NGÀY 07 THÁNG 12 NĂM 2004 CỦA BỘ TÀI CHÍNH HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ198/2004/NĐ-CP NGÀY 03 THÁNG 12 NĂM 2004 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ THU TIỀN SỬ DỤNG ĐẤT.
             Bạn cũng lưu ý là thời điểm sử dụng đất của gia đình bạn phải diễn ra trước thời điểm có quy hoạch về giao thông đó  được phê duyệt thì mới được cấp GCN. Còn gia đình bạn sử dụng đất sau khi quy hoạch được phê duyệt, việc sử dụng đất là lấn chiếm hành lang an toàn giao thông thì sẽ không đủ điều kiện để cấp GCN QSD đất.
  • Xem thêm     

    30/11/2011, 09:58:45 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
            1. Nếu có căn cứ chứng minh là bạn của bạn đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì mới phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Nếu bạn của bạn vay tiền rồi sử dụng vào mục đích phi pháp dẫn đến không còn khả năng hoàn trả hoặc bỏ trốn để không trả nợ thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Do vậy, bạn hãy tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và thực trạng sự việc của bạn ấy để biết hậu quả pháp lý có thể xảy ra.
            2. Người ta cho vay thì người ta có quyền đòi. Việc bạn của bạn chậm trả tiền là ảnh hưởng đến quyền lợi của người cho vay nên người ta có quyền đòi tiền và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp.
           3. Nếu xác định được đúng tài khoản ngân hàng của chủ nợ thì bạn của bạn có thể chuyển tiền vào đó để trả nợ (vì gặp mặt để trả thì sợ bị đánh?). Nếu bạn đó đã chuyển tiền đúng tài khoản và bạn đó giữ biên lai chuyển tiền thì đã có đủ căn cứ chứng minh việc trả nợ. Trong vụ việc này bạn nên khuyên bạn của bạn trả nợ càng sớm càng tốt, tránh những hậu quả không hay có thể xảy ra.
  • Xem thêm     

    30/11/2011, 09:43:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Khoản 2, Điều 29 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

            Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động tự ý xây dựng, đầu tư bất động sản trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trường hợp có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất phải thu hồi mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.”.

              Như vậy, nếu đất của gia đình bạn đã có quy hoạch thành nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì  gia đình bạn  vẫn có quyền được cấp GCN QSD đất và thực hiện các quyền của chủ sử dụng đất nhưng không được phép  tự ý xây dựng. Nếu phòng Tài nguyên và Môi trường đã "duyệt" hồ sơ của bạn thì chứng tỏ gia đình bạn đủ điều kiện để được công nhận quyền sử dụng đất và thủ tục đang được tiến hành thuận lợi.

             Nếu thửa đất của gia đình bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì gia đình bạn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    30/11/2011, 09:28:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

             1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì khi phát hiện nội dung ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sai sót thì Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đính chính đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp; Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đính chính đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp.
              Như vậy, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bạn nếu có phát hiện sai sót ghi trong Giấy chứng nhận.
              2. Không có quy định pháp luật nào bắt buộc phải tất cả các người có tên trong Giấy chứng nhận phải yêu cầu đính chính GCN quyền sử dụng đất thì cơ quan có thẩm quyền mới đính chính Giấy chứng nhận (chỉ cần phát hiện có sai sót là phải đính chính). Do vậy, chỉ cần một mình bạn yêu cầu đính chính giấy chứng nhận đã cấp do có sai sót thì cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp cho gia đình bạn. Việc cán bộ giải quyết vụ việc bắt cả hai vợ chồng bạn phải ủy quyền thực hiện thủ tục là máy móc, không đúng quy định pháp luật. Bạn có thể khiếu nại đến thủ trưởng cơ quan đó để được giải quyết.
              3. Nguyên tắc đính chính Giấy chứng nhận là đính chính nội dung ghi trong Giấy chứng nhận cho khớp với hồ sơ địa chính. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm kiểm tra, ghi nội dung đính chính trên GCN theo quy định tại điểm q khoản 1 Điều 12 của Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT (3) để cơ quan tài nguyên và môi trường xác nhận.
  • Xem thêm     

    30/11/2011, 08:34:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.


    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.".

            Theo quy định tại Điều 8, Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng (hình phạt đến 15 năm tù) do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khung hình phạt từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình).
             Như vậy, tỷ lệ thương tật 36 % là thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 104 BLHS, hình phạt cao nhất đến 7 năm tù nên nếu trường hợp bạn nêu chỉ có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 2, Điều 104 BLHS thì em bạn sẽ không phạm tội.
            Tuy nhiên, nếu thương tích là 36% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS thì là tội phạm rất nghiêm trọng và em của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
            Theo thông tin mà bạn nêu thì rất có thể trường hợp này sẽ thuộc một trong các tình tiết sau đây: Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân, có tổ chức, thuê gây thương tích hoặc có tính chất côn đồ... Do vậy, dù thương tích chỉ 36 % nhưng vẫn thuộc khoản 3 Điều 104 BLHS (hình phạt đến 15 năm tù). Do vậy, em của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
            2. Bộ luật tố tụng hình sự quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại như sau:

    "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.".

              Như vậy, nếu phạm tội thuộc khoản 1 Điều 104 BLHS thì mới khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và khi người bị hại rút yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng mới đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp của em bạn có thể thuộc khoản 3 Điều 104 BLHS nên nếu bị hại không yêu cầu khởi tố thì cơ quan tố tụng vẫn khởi tố và nếu bị hại có rút đơn thì vụ việc vẫn được tiếp tục giải quyết theo pháp luật.

             3. Nếu cơ quan điều tra đã xác định được trong vụ việc này là tội phạm có tổ chức (khoản 3, Điều 20 BLHS), hoặc em bạn thuê người khác gây thương tích hoặc gây cố tật nhẹ cho nạn nhân (làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân) thì em bạn sẽ bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hai sức khỏe cho người khác theo quy định tại khoản 3, Điều 104 BLHS. Khi đó việc rút đơn của bị hại không phải là căn cứ để đình chỉ vụ án mà chỉ là một tình tiết để cơ quan tố tụng xem xét khi lượng hình phạt.
            4. Nếu em bạn đã bị khởi tố vụ án thì em bạn phải cố gắng bồi thường, khắc phục hậu quả cho nạn nhân, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải... thì mới mong được giảm nhẹ hình phạt. bạn có thể tham khảo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS sau đây:

    "Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

    e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

    k) Phạm tội do lạc hậu;

    l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    m) Người phạm tội là người già;

    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    o) Người phạm tội tự thú;

    p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

    q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

    r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

    2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.".

  • Xem thêm     

    29/11/2011, 11:13:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn nguyenvanluong.bs!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin được BLTTHS quy định như sau:

    Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

    1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
    2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

      Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.

    3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.

      Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.

    4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

    2. Thời hạn điều tra:

    Điều 119. Thời hạn điều tra

    1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
    2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

      Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

      a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
      b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
      c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
      d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
    3. Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát được quy định như sau:
      a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
      b) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
      c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
      d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
    4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
    5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.

      Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

    6. Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.

    3. Mức hình phạt:
    - Nếu phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS thì chiếm đoạt 3 tỷ đồng có thể bị xử tử hình, cụ thể khoản 4, Điều 139 BLHS quy định như sau: 

    "  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.".

    - Nếu phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS thì có thể chịu án chung thân nếu số tiền chiếm đoạt trên 500 triệu đồng, cụ thể khoản 4, Điều 140 BLHS quy định như sau: 

    "  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.".

    4. Trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả:
             Khi giải quyết vụ án hình sự, tòa án sẽ giải quyết luôn trách nhiệm dân sự (hoặc có thể tách ra thành một vụ án dân sự khác). Tài sản của bị cáo sẽ bị kê biên để thi hành án, trả lại cho bị hại.
            Nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà bị cáo tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả thì sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu không tự nguyện bồi thường thì sẽ bị mức án cao và Tòa án vẫn tuyên buộc bị cáo phải trả tiền cho các bị hại. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì các người bị hại có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành đối với trách nhiệm dân sự đó (trả tiền).

  • Xem thêm     

    29/11/2011, 10:29:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn duyct090385!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             Bạn chưa nói rõ di sản mà mẹ bạn để lại là gi? (Bất động sản hay động sản); Bố bạn có còn sống không? Tài sản mà bạn nói là tài sản chung của hộ gia đình, tài sản chung của bố mẹ bạn hay là tài sản riêng của mẹ bạn? Thủ tục tặng cho của bạn đã thực hiện đến đâu rồi?...
            Với thông tin bạn cung cấp như vậy thì Luật sư chưa thể có câu trả lời chính xác cho bạn được. Tôi chỉ có thể trả lời bạn một số nội dung mang tính nguyên tắc như sau:

             1. Nếu tài sản đó là tài sản riêng của mẹ bạn thì mẹ bạn mới có toàn quyền định đoạt cho bạn; Nếu là tài sản chung với bố bạn thì mẹ bạn chỉ được định đoạt 1/2 tài sản đó; Nếu là tài sản chung của hộ gia đình (nhà đất của hộ gia đình) thì mẹ bạn chỉ có quyền định đoạt cho bạn phần sở hữu của mẹ bạn trong khối tài sản chung đó;
             2. Nếu tài sản mà bạn đang nói là bất động sản (nhà, đất...) hoặc tài sản có đăng ký quyền sở hữu (ô tô, xe máy, tàu thủy...) thì thủ tục tặng cho mới bắt buộc phải công chứng và sang tên sở hữu. Nếu là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì chỉ cần ký giấy tặng cho là có hiệu lực rồi (không cần công chứng, sang tên);
             3. Nếu khi còn sống, mẹ bạn đã cho bạn toàn bộ tài sản và thủ tục tặng cho đã hoàn tất thì khi mẹ bạn chết sẽ không còn di sản và không cần nhắc đến thừa kế nữa. Các anh, chị em bạn có muốn tranh chấp cũng không được.
             4. Nếu khi mẹ bạn còn sống mà chưa hoàn tất thủ tục tặng cho hoặc việc tặng cho không hợp pháp thì khi mẹ bạn chết, tài sản đó sẽ là di sản thuộc về các thừa kế. Trong thời hạn 6 tháng, kể từ thời điểm mẹ bạn chết mà các anh chị em bạn không thực hiện thủ tục khước từ di sản thì di sản đó sẽ được chia đều cho các thừa kế (trừ trường hợp mẹ bạn có di chúc hợp pháp).
             Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để luật sư tư vấn chính xác cho bạn./.
  • Xem thêm     

    29/11/2011, 10:05:13 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn manxuanbo!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
               1. Trách nhiệm hình sự: Nếu người lái xe có lỗi đối với vụ tai nạn đó (ví dụ: Phóng nhanh, vượt ẩu, không quan sát mặt đường, không làm chủ được tốc độ, đi sai phần đường, không có giấy phép lái xe...) thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS. Bạn có thể tham khảo thêm quy định tại Nghị quyết số02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TAND tối cao để biết cụ thể về khung hình phạt. Nếu người lái xe đó đã đi đúng tốc độ, đúng làn đường, và không có vi phạm nào khác; việc vượt xe ô tô của em bạn là vượt ẩu gây ra tai nạn (việc ô tô đâm phải là sự kiện bất ngờ) thì người lái xe sẽ không chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có thể bị bồi thường dân sự (do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra). Cụ thể vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không phải căn cứ vào sơ đồ hiện trường, các vật chứng, dấu vết hiện trường và lời khai của các nhân chứng...
               2. Trách nhiệm dân sự: Có thể lái xe không phạm tội nhưng chủ xe  vẫn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn theo quy định tại Điều 623 BLDS, cụ thể như sau:
               "Ðiều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

     1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

     Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

     2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

     3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

     a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

     b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

     4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

     Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại."

    Mức bồi thường  cũng được BLDS năm 2005 quy định như sau:

    "Ðiều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Ðiều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.".

    Các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao. Bạn có thể xem thêm văn bản này để biết thêm chi tiết.

  • Xem thêm     

    29/11/2011, 09:18:26 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Đến nay bạn đã đủ điều kiện khởi kiện (con bạn đã đủ 12 tháng tuổi), do vậy bạn có thể khởi kiện lại một vụ án ly hôn để Tòa án giải quyết. Khi khởi kiện lại, bạn phải nộp đầy đủ hồ sơ khởi kiện thì Tòa án mới thụ lý.
            Nếu trước đây Tòa án chỉ giữ các bản sao các tài liệu mà bạn cung cấp. Bạn vẫn còn bản gốc giấy đăng ký kết hôn thì bạn chỉ cần bổ sung thêm bản sao chứng minh thư, hộ khẩu và viết lại đơn ly hôn là được. Điều quan trọng bây giờ là bạn phải cung cấp được địa chỉ của vợ bạn. Nếu không có địa chỉ của vợ bạn, Tòa án sẽ không thụ lý.
  • Xem thêm     

    28/11/2011, 11:33:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Nếu theo quy hoạch sử dụng đất hiện nay mà ngôi nhà của bạn đã thuộc hành lang an toàn giao thông thì gia đình bạn không đủ điều kiện để được cấp GCN QSD đất. Tuy nhiên nếu bị thu hồi đất thì vẫn có thể được đền bù nếu đất của gia đình bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 50 Luật đất đai.
           Nếu quy hoạch sử dụng đất của khu vực đó là khu dân cư và thửa đất của gia đình bạn nằm trong quy hoạch khu dân cư đó thì gia đình bạn mới được cấp GCN là đất ở (đất nằm trong khu dân cư).
  • Xem thêm     

    28/11/2011, 11:27:43 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Nếu tài sản đó được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì mặc nhiên coi là tài sản chung và sẽ chia đôi khi ly hôn. Nếu ông A khẳng định là tài sản riêng của mình thì ông A có nghĩa vụ chứng minh. Nếu ông A không chứng minh được thì tài sản đó sẽ được chia đôi (Luật hôn nhân và gia đình và các hướng dẫn của TAND tối cao);
             2. Tình huống bạn nêu hơi "lạ" bởi nếu nhà đất mà mẹ bà B cho hai vợ chồng thì trong GCN QSD đất phải đứng tên 2 người (hợp đồng tặng cho cũng phải tên 2 vợ chồng chứ?) Chẳng lẽ mẹ vợ lại chỉ ký giấy cho con rể mà không cho con gái?
             3. Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì trong thời hạn 5 năm, người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành bản án, quyết định đó. Nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành án.
  • Xem thêm     

    28/11/2011, 11:19:02 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Người đó đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 HLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Do vậy, bạn có thể báo công an để được xem xét, giải quyết. Giấy vay tiền viết tay cũng là chứng cứ để giải quyết vụ việc. Ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự theo một trong hai tội danh trên, người đó vẫn phải có nghĩa vụ trả tiền cho bạn.

  • Xem thêm     

    28/11/2011, 11:06:26 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

                1. Nếu việc bạn giao nhà cho người họ hàng kia bằng một hợp đồng ủy quyền thì cần xem lại xem còn thời hạn ủy quyền không và nếu hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng nhà vẫn còn hiệu lực thì bạn cũng có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng để đòi lại nhà. Tuy nhiên bạn phải báo trước cho họ có thời gian chuẩn bị (báo trước 6 tháng hoặc 2 năm tùy từng trường hợp)
                2. Trước đây pháp luật quy định người đòi lại nhà cho thuê, ở nhờ phải bố trí hỗ trợ chỗ ở cho người đi thuê, ở nhờ trong thời hạn 6 tháng, nay không còn quy định đó. Nếu bạn có căn cứ đòi nhà và tòa án chấp nhận yêu cầu của bạn thì bạn có thể lấy lại nhà mà không bắt buộc phải hỗ trợ tiền thuê nhà trong thời hạn 6 tháng, chỉ cần bạn báo trước thời gian đòi nhà là Tòa án sẽ xem xét yêu cầu của bạn. Giao dịch của bạn là giao dịch về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt nam định cư ở nước ngoài tham gia nên nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ áp dụng quy định tại Nghị quyết1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban thường vụ quốc hội để giải quyết, cụ thể như sau:

    Điều 8. Hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở

    Các trường hợp sau đây được coi là hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở:

    1. Có hợp đồng bằng văn bản được các bên cùng ký;

    2. Người đang ở tại nhà ở đó không chứng minh được việc họ ở tại nhà ở đó là theo quan hệ mua bán, thuê, đổi, tặng cho, thừa kế nhà ở, uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân;

    3. Chủ sở hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở hoặc người được chủ sở hữu nhà ở uỷ quyền chứng minh được họ cho mượn, cho ở nhờ nhà ở đó.

    Điều 9. Bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài; bên mượn, bên ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam

    1. Trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng.

    2. Trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng vẫn còn thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở kể từ ngày hết thời hạn cho mượn, cho ở nhờ, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng.

    3. Trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở không được xác định trong hợp đồng thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng; trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ nhà ở không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì các bên thoả thuận việc tiếp tục cho mượn, cho ở nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005; nếu không thoả thuận được thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất hai mươi bốn tháng.

    Điều 24. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhà ở

    1. Trường hợp nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ giữa cá nhân với cá nhân đã được bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp thì việc lấy lại nhà ở được giải quyết như sau:

     a) Nếu nhà ở đã được sửa chữa thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư sửa chữa còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    b) Nếu nhà ở đã được cải tạo, nâng cấp mà trước khi nhà ở được cải tạo, nâng cấp đã không có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ thì khi lấy lại nhà ở bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác; trường hợp đã có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ trước khi tiến hành cải tạo, nâng cấp thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần của giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    2. Trường hợp uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân mà người quản lý, sử dụng đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp thì bên được nhận nhà phải thanh toán cho bên đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp giá trị đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    Điều 25. Làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

    Trường hợp bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà ở thuê, mượn, ở nhờ thì giải quyết như sau:

    1. Nếu bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đã đồng ý hoặc đến trước ngày 01 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới và diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất làm thêm nhà ở hoặc nhà ở mới theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác; trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng một cách riêng biệt với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    2. Nếu bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đã  không đồng ý về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần của giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    3. Nếu nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ bị phá dỡ và bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã xây dựng nhà ở mới thay thế thì giải quyết như sau:

    a) Nếu việc phá dỡ đã có sự đồng ý của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở hoặc đến trước ngày 01 tháng 7 năm 1996 mà bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác; trường hợp bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ không có yêu cầu lấy lại nhà ở thì nhà ở mới thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    b) Nếu việc phá dỡ đã không có sự đồng ý của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ thì nhà ở xây dựng mới thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần của giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác; trường hợp các bên có thoả thuận nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ thì họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    4. Trường hợp uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân mà người được uỷ quyền quản lý, sử dụng đã làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới thì giải quyết như sau:

    a) Nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng một cách riêng biệt thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới thuộc quyền sở hữu của người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới và họ phải thanh toán cho bên uỷ quyền quản lý nhà ở giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất làm thêm hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác; trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt thì diện tích làm thêm, nhà ở mới thuộc quyền sở hữu của bên uỷ quyền quản lý nhà ở nhưng phải thanh toán cho người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    b) Nếu người được uỷ quyền quản lý, sử dụng đã phá dỡ nhà ở và xây dựng nhà ở mới thay thế thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên uỷ quyền nhưng phải thanh toán cho bên được uỷ quyền giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác;

    c) Nếu vì lý do bất khả kháng mà nhà ở được uỷ quyền quản lý không còn và người đang quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế thì công nhận quyền sở hữu nhà ở mới cho người đó nhưng họ phải thanh toán cho bên uỷ quyền giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”.