Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    11/12/2011, 10:10:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             "Bàn khoáng" mà bạn nói có thể là BẰNG KHOÁN ĐIỀN THỔ do chính quyền cũ cấp. Đó là một loại giấy tờ sở hữu làm căn cứ cấp GCN QSD đất theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 50 Luật đất đai. Nếu lấy được giấy tờ về nguồn gốc đất như vậy thì gia đình bạn sẽ rất có lợi: Gia đình bạn sẽ không phải nộp tiền sử dụng đất khi được cấp GCN; Nếu giấy tờ đó thể hiện nguồn gốc sử dụng trước ngày 18/12/1980 thì toàn bộ thửa đất được công nhận là đất ở theo quy định tại khoản 2, Điều 87 luật đất đai.
              Bạn có thể tham khảo quy định của Luật đất đai sau đây:

    Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

    Điều 87. Xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao

    1. Đất vườn, ao được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư.

    2. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này thì diện tích đất vườn, ao đó được xác định là đất ở.

    3. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà trong giấy tờ đó ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất có vườn, ao được xác định theo giấy tờ đó.

    4. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất có vườn, ao được xác định như sau:

    a) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở theo số lượng nhân khẩu trong hộ gia đình;

    b) Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở tại địa phương;

    c) Trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất.

    5. Đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này thì diện tích đất ở có vườn, ao được xác định theo mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 04:29:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Thực tiễn xét xử của Tòa án VN thì còn nhiều điều phải nói! Có 3 vụ án nội dung như nhau nhưng khi có kháng cáo thì vẫn có thể 1 vụ bị sửa án, một vụ y án và một vụ bị hủy án để xử lại...
              Tuy nhiên, đó là những vụ án phức tạp, giá trị tài sản lớn hoặc liên quan đến những đối tượng thực sự "lớn". Còn vụ việc của gia đình bạn không phức tạp, chứng cứ rõ ràng, lại có sự tư vấn, trợ giúp pháp lý của các Luật sư do vậy nhiều khả năng gia đình bạn sẽ thắng kiện: Việc xây dựng nhà không có giấy phép tại khu vực đã có quy hoạch xây dựng, bắt buộc phải có giấy phép rõ ràng là sai rồi; Hành vi xây dựng không phép đã gây thiệt hại đến tài sản của gia đình bạn "gây ra sự cố chuyễn vị đất,làm khối nhà mình dịch chuyển hơn 5cm,về phía nhà đang XD(làm hư hỏng nghiêm trọng nhà mình)"... Nội dung quan trọng nhất của gia đình bạn là cung cấp chứng cứ để chứng minh gia đình bạn có thiệt hại thực sự và thiệt hại đó bắt nguồn từ nguyên nhân xây dựng trái phép của nhà hàng xóm.
              Bạn lưu ý là việc xử lý công trình xây dựng trái phép đó (đình chỉ thi công, buộc tháo dỡ...) thuộc về UBND các cấp chứ không phải là Tòa án. Do vậy, dù có khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bạn vẫn phải yêu cầu UBND tiến hành xử lý đối với công trình xây dựng trái phép đó. Nếu Chủ tịch UBND các cấp không xử lý vi phạm thì bạn có thể mời các vị Chủ tịch đó ra "Tòa án hành chính" bằng một vụ án khác. Bạn xem thêm nội dung này tài Nghị định 180/2007/NĐ-CP về của Chính phủ hướng dẫn luật xây dựng về xử lý công trình xây dựng trái phép.
             Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 04:14:03 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                 Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

              1. Hình thức hợp đồng: Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hình thức hợp đồng dân sự như sau:

    "Ðiều 401. Hình thức hợp đồng dân sự

    1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

    2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó."

             Như vậy, pháp luật quy định hợp đồng có thể thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong hợp đồng vay nợ, luật  không quy định là phải lập thành văn bản. Do vậy bên cho vay chỉ cần có chứng cứ chứng minh về việc đã cho chú bạn vay tiền (băng đĩa ghi âm, ghi hình...) hoặc chú bạn thừa nhận việc vay tiền đó thì chú bạn phải có trách nhiệm trả nợ.

              2.  Trách nhiệm trả nợ và hậu quả pháp lý:

             Chú bạn phải có trách nhiệm trả nợ số tiền đã vay, nếu cố tình không trả thì họ có thể dùng nhiều biện pháp ép chú bạn phải bán nhà để trả nợ. Nếu họ khởi kiện chú bạn thì sau này ngôi nhà đó cũng sẽ bị kê biên, phát mại để trả nợ.

             Trong vụ việc này, hành vi của chú của bạn có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS (vay tài sản rồi sử dụng vào mục đích phi pháp dẫn đến không còn khả năng hoàn trả) và mức hình phạt có thể là 20 năm hoặc chung thân. ..

             Do vậy, cách tốt nhất là gia đình chú bạn nên tự thu xếp với chủ nợ hoặc tìm cách trả nợ. Nếu vụ việc đưa ra pháp luật thì chú bạn nhiều khả năng sẽ phạm tội và vẫn phải trả nợ hoặc họ dùng "xã hội đen" để đòi nợ thì vụ việc càng phức tạp. Bạn có thể tham khảo quy định pháp luật sau đây của BLHS:

               Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

  • Xem thêm     

    11/12/2011, 03:51:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn xxnguyenxx!
                      Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    Trong vụ việc này bạn hoàn toàn có ưu thế và nhiều khả năng thắng kiện bởi các lý do sau:

    1. Tư cách khởi kiện: Khoản 2, Điều 56 BLTTDS quy định: "Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.".

    Như vậy, trong vụ việc này giả sử bà A không có quyền định đoạt thửa đất đó thì cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của bà B do vậy bà B không đủ tư cách khởi kiện. Nhiều khả năng Tòa án sẽ không thụ lý vụ án, mà trả lại đơn khởi kiện cho bà B căn cứ vào quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 168, BLTTDS: "Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự".

    2. Hạn chế quyền định đoạt tài sản: Nếu bà A nhận được tài sản đó thông qua hợp đồng tặng cho  hoặc di chúc có điều kiện (chỉ được ở chứ không được bán) thì giao dịch giữa bạn với bà A mới có thể vô hiệu. Tuy nhiên, theo thông tin mà bạn cung cấp thì điều kiện đó không phải từ nguồn gốc tài sản mà là từ một sự cam đoan không biết đúng sai thế nào... do vậy chưa có căn cứ để xác định bà A phải chịu ràng buộc bởi điều kiện đó.

    3. Bạn là người ngay tình nên được pháp luật bảo vệ: Việc giao dịch của bạn là ngay tình và thủ tục mua bán, chuyển nhượng đã hoàn tất do vậy kể cả nay xác định bà A không phải là chủ sở hữu tài sản, không có quyền định đoạt tài sản thì chủ sở hữu tài sản thực sự cũng không có quyền đòi lại nhà đất đó nữa. Nội dung đó được quy định tại Điều 258 BLDS năm 2005, cụ thể như sau:

    "Ðiều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.".

              4. Hậu quả pháp lý: Trong vụ việc này, giả sử hợp đồng vô hiệu do bà A không có quyền định đoạt tài sản, không được quyền bán cho bạn thì lỗi hoàn toàn thuộc về bà A bởi đã "lừa dối" bạn khi tiến hành giao dịch. Nếu giao dịch vô hiệu thì bạn phải trả lại nhà cho bà A, bà A trả lại tiền cho bạn và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bạn.

    Tuy nhiên, trong trường hợp này còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể cung cấp thông tin để các Luật sư tư vấn cụ thể cho bạn.

  • Xem thêm     

    11/12/2011, 12:02:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn onelykitty10591!
              Bạn trình bày nội dung chưa rõ nên Luật sư chưa thể trả lời nội dung cụ thể cho bạn.
              Đối với đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc về Tòa án. Tuy nhiên, thanh tra TN&MT cũng có thẩm quyền kiểm tra xem xét việc cấp GCN QSD đất. Do vậy, trong trường hợp này gia đình anh Phương có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng hoặc yêu cầu Thanh tra huyện xem xét lại việc cấp GCN QSD đất của gia đình bạn. Nếu thấy việc Cấp GCN cho gia đình bạn không đúng pháp luật thì Thanh tra có quyền kiến nghị UBND huyện ra Quyết định hủy GCN QSD đất của gia đình bạn.
             Nếu việc chuyển nhượng đất đó không phải là tự nguyện hoặc không tuân thủ quy định pháp luật thì UBND huyện vẫn có thể hủy GCN và yêu cầu các bên thực hiện lại thủ tục, khi đó nếu có tranh chấp tiếp thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc Thanh tra "yêu cầu" các bên chia đôi đất chỉ là sự gợi ý thỏa thuận chứ không phải là một quyết định hành chính.
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 11:48:42 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                  Điều 29, Luật nghĩa vụ quân sự quy định các trường hợp được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự trong thời bình và các trường hợp được miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự như sau:

    "Điều 29

    1. Những công dân sau đây được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Chưa đủ sức khoẻ phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khoẻ;

    b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động;

    c) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ;

    d) Giáo viên, nhân viên y tế, thanh niên xung phong đang làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức, viên chức được điều động đến làm việc ở những vùng này;

    đ) Đang nghiên cứu công trình khoa học cấp Nhà nước được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc người có chức vụ tương đương chứng nhận;

    e) Đang học ở các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học do Chính phủ quy định;

    g) Đi xây dựng vùng kinh tế mới trong ba năm đầu.

    Hằng năm, những công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định tại khoản này phải được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ.

    2. Những công dân sau đây được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình:

    a) Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng một, con của bệnh binh hạng một;

    b) Một người anh hoặc em trai của liệt sĩ;

    c) Một con trai của thương binh hạng hai;

    d) Thanh niên xung phong, cán bộ, công chức, viên chức quy định tại điểm d khoản 1 Điều này đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng trở lên.

    3. Công dân thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ hoặc được miễn gọi nhập ngũ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nếu tình nguyện thì có thể được tuyển chọn, gọi nhập ngũ.

    4. Chính phủ quy định cụ thể vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn.
            Như vậy, trường hợp có quyết định làm việc tại cơ quan Nhà nước không phải là đối tượng được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự. Nếu bạn không thuộc một trong các trường hợp khác quy định tại Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự nêu trên thì bạn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nếu trúng tuyển.
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 11:36:17 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 11:35:22 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Luật đất đai quy định: Tranh chấp đất đai mà các bên không thỏa thuận được thì có đơn đề nghị UBND cấp xã hòa giải. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn,  UBND xã có trách nhiệm phối hợp với các thành viên của Mặt trận tổ quốc để tổ chức hòa giải giữa các bên. Nếu hòa giải không thành thì một trong các bên có quyền khởi kiện tại Tòa án (Điều 135, 136). Luật không quy định là phải hòa giải mấy lần thì mới được khởi kiện (chỉ cần UBND phường triệu tập các bên đến để hòa giải nhưng bên kia không đến là cũng  được xác định là hòa giải không thành và bạn có quyền khởi kiện, chứ không cần phải hòa giải nhiều lần..) Do vậy, cán bộ UBND phường nói với bạn là hòa giải lần thứ hai mới được khởi kiên là không đúng pháp luật.
               Người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bạn hoặc gây thiệt hại đến tài sản của bạn thì bạn kiện người đó. Trong vụ việc này bạn kiện Chủ sử dụng đất và Chủ sở hữu công trình xây dựng.
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 09:12:43 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

              Bây giờ tranh chấp xảy ra thì họ có thể phủ nhận tất cả những thỏa thuận giữa hai bên. Do vậy, nếu ra cơ quan công quyền thì bạn phải có nghĩa vụ cung cấp chứng chứ để chứng minh giao dịch mua bán đó là có thật và Bé đang nợ tiền hàng của bạn. Bạn cũng cần cân nhắc cách thức đòi nợ sao cho nhanh gọn, hiệu quả.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 09:05:13 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư đã xem
  • Xem thêm     

    11/12/2011, 09:03:28 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Với thông tin như vậy thì bạn đã có thể khởi kiện để đòi nợ rồi. Tuy nhiên, để chắc chắn được Tòa án chấp nhận yêu cầu của bạn thì bạn cũng cần thu thập thêm thông tin, tài liệu chứng cứ để chứng minh là có việc mua bán và nợ tiền, làm rõ là việc gửi hàng trở lại để bán hộ chứ không phải là trả lại hàng do không đảm bảo chất lượng. Bạn có thể làm đơn khởi kiện đòi nợ và gửi các chứng cứ kèm theo đến Tòa án nơi người đó cư trú để được giải quyết.
             Thực tế, người ta thường dùng nhiều "biện pháp" khác nhau để đòi nợ..., trong đó, khởi kiện dân sự chỉ là "đường cùng". Vụ việc của bạn chứng cứ yếu, số tiền ít, người nợ tiền không cùng địa phương... nếu bạn khởi kiện dân sự thì thời gian, công sức, chi phí để thực hiện công việc không đáng để bạn theo kiện nên tốt nhất bạn nên yêu cầu công an xem xét xem có dấu hiệu tội phạm hay không hoặc nhờ "người quen" đến gặp Bé để đòi nợ thì sẽ nhanh gon, hiệu quả hơn.
  • Xem thêm     

    10/12/2011, 10:45:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
           1. Bộ luật dân sự quy định hình thức của hợp đồng có thể thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi nhất định. Hợp đồng vay tài sản không bắt buộc phải lập văn bản do vậy chỉ cần bằng lời nói hoặc hành vi thì cũng là hợp pháp rồi. Do vậy, bạn có thể khởi kiện để đòi số tài sản đó nếu bạn có đủ chứng cứ chứng minh có việc vay mượn. Tòa án nơi người vay tài sản cư trú sẽ là nơi có thẩm quyền giải quyết.
           2. Trong vụ việc của bạn có thể có dấu hiệu tội phạm của tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Nếu người đó có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn hoặc vay tiền, tài sản của bạn rồi sử dụng vào mục đích phi pháp dẫn đế không có khả năng hoàn trả thì sẽ phạm tội. Do vậy, bạn cũng có thể trình báo với cơ quan công an nơi sự việc xảy ra để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    10/12/2011, 10:30:11 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Về nguyên tắc thì chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác và quy định điều kiện có hiệu lực của di chúc - Di chúc có điều kiện. Do vậy, bạn có quyền lập di chúc cho các con bạn ngôi nhà đó và có thể đưa thêm điều kiện trong di chúc là chỉ các con, các cháu bạn có quyền sở hữu sử dụng, không được cho chồng bạn sử dụng ngôi nhà đó.
             Nếu bạn lập di chúc để lại ngôi nhà đó cho người khác, rồi người khác ủy quyền cho con bạn sử dụng thì sẽ rất phức tạp và dễ phát sinh tranh chấp. Do vậy, cách tốt nhất là bạn nên lập di chúc có điều kiện theo mong muốn của bạn và không trái pháp luật, đạo đức xã hội. 
  • Xem thêm     

    10/12/2011, 09:34:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Thửa đất của bạn là đất dự án chứ không phải là đất ở của hộ gia đình, cá nhân nên việc bạn có được tách thửa hay không  không chỉ phụ thuộc vào hạn mức, diện tích tách thửa mà còn phụ thuộc vào quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt của dự án đó. Nếu việc tách thửa đất đảm bảo đủ hạn mức theo quy định của tỉnh và phù hợp với dự án đã được phê duyệt thì bạn mới có thể thực hiện được việc tách thửa.
  • Xem thêm     

    10/12/2011, 12:39:41 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             Việc có tên trong hộ khẩu và việc sở hữu tài sản chung của hộ gia đình không phải lúc nào cũng đồng nhất. Nếu nhà đất của ông bà ngoại bạn được cấp cho hộ gia đình và thời điểm giao đất, cấp đất mẹ bạn vẫn là thành viên của hộ gia đình thì mẹ bạn có quyền sở hữu chung đối với tài sản là nhà đất đó. Sau này mẹ bạn có chuyển hộ khẩu đi nơi khác thì cũng không mất quyển sở hữu tài sản đó.
             Nếu nhà đất là của ông bà ngoại bạn thì các con có quyền thừa kế như nhau, không phân biệt là người con đó có tên trong hộ khẩu gia đình hay không.
            Tóm lại: Nếu mẹ bạn không còn cư trú ở ngôi nhà đó thì có thể bị cắt hộ khẩu nhưng việc cắt hộ khẩu đó không ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của mẹ bạn đối với tài sản của ông bà ngoại bạn. Việc tranh chấp nhà đất sẽ do Tòa án hoặc UBND giải quyết theo thẩm quyền, còn nếu có khiếu nại, thắc mắc về hộ khẩu thì mẹ bạn có thể yêu cầu công an giải quyết theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    10/12/2011, 12:30:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
            1. Theo quy định của pháp luật thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức là 2 năm kể từ khi hợp đồng được ký kết. Với hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm, trái pháp luật, đạo đức xã hội thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu không bị hạn chế về thời gian.
             2. Theo thông tin mà bạn nêu thì hợp đồng chuyển nhượng trên có thể vô hiệu cả về nội dung và hình thức. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì về nguyên tắc Tòa án sẽ tuyên bố Hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật: Bên nào nhận của nhau thứ gì thì trả lại, bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu, gây thiệt hại thì phải bồi thường.
             Tuy nhiên, cũng cần xem lại cụ thể nguồn gốc thửa đất và thỏa thuận cụ thể của các bên để xác định hiệu lực của Hợp đồng: Nếu phần đất chuyển nhượng chưa được cấp GCN QSD đất hợp pháp đối với toàn bộ diện tích đất chuyển nhượng nhưng đất đó đủ điều kiện cấp GCN QSD đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai, đồng thời bên nhận chuyển nhượng đã nhận, sử dụng thửa đất đó từ năm 2005, đã trồng cây lâu năm, xây nhà kiên cố.. mà bên chuyển nhượng không phản đối, chính quyền không xử phạt thì Tòa án có thể công nhận hợp đồng và bắt buộc các bên phải thực hiện việc chuyển nhượng.
            3. Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán, TAND tối cao:

    " Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này (Chưa có giấy chứng nhận), nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

    c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

    c.3. Xác định thiệt hại.

    - Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

    Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

    - Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

    Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    - Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử."

  • Xem thêm     

    09/12/2011, 01:05:05 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Bạn có thể khởi kiện một vụ án dân sự để đòi nợ số tiền đó. Tuy nhiên, bạn phải chuẩn bị chứng cứ về việc giao dịch đó là hợp pháp và bạn không có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu của bạn. Bạn cũng cần làm rõ việc gửi lại hàng để bạn bán là trả lại hàng hay đơn thuần là gửi, việc đó có liên quan đến hợp đồng trước không.
  • Xem thêm     

    09/12/2011, 12:54:47 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn không thể thực hiện được yêu cầu đó. Nếu có căn cứ xác định lô đất đó là của người phải thi hành án thì bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành thủ tục kê biên, phát mại lô đất đó để đảm bảo việc thi hành án.
  • Xem thêm     

    09/12/2011, 12:50:38 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn Jang_Long!

    Điều 2 Thông tư liên tịch số175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT của Bộ quốc phòng va Bộ Giáo dục và Đào tạo có hiệu lực kể từ ngày 30/10/2011 quy định như sau:

    "1. Đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ:

    a) Công dân có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ và học viên là hạ sĩ quan, binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng.

    b) Công dân đang học tập tại các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập trung gồm:

    - Trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng khiếu, dự bị đại học;

    - Trường trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề;

    - Các đại học, trường cao đẳng, trường đại học;

    - Học viện, viện nghiên cứu có nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và tương đương;

    - Các trường của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.

    c) Học viên đang học tập trung theo chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở hoặc cấp trung học phổ thông tại các cơ sở giáo dục.

    d) Công dân đi du học tại các trường ở nước ngoài có thời gian đào tạo mười hai tháng trở lên.

    2. Công dân nêu tại điểm b, điểm c, điểm d khoản 1 Điều này chỉ được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong một khoá đào tạo tập trung đầu tiên, trường hợp tiếp tục học tập ở các khoá khác thì không được tạm hoãn gọi nhập ngũ.

    - Thời gian một khóa đào tạo tập trung được tính từ ngày nhà trường quy định có mặt nhập học (ghi trong giấy báo nhập học) đến khi tốt nghiệp khoá học.

    - Một khoá học chỉ thực hiện ở một trình độ đào tạo, trường hợp đào tạo liên thông phải liên tục không gián đoạn.".

             Như vậy, UBND trả lời bạn như vậy là đúng. Bạn đã được hoãn một lần do vậy theo quy định tại Khoản 2, Điều 2, Thông tư liên tịch số175/2011/TTLT-BQP-BGDĐTthì bạn không được hoãn thêm một lần nữa.
  • Xem thêm     

    09/12/2011, 12:41:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn hãy làm đơn đề nghị UBND xã phường tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Nếu hòa giải không thành thì gia đình bạn có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết. Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể nêu tiếp nội dung để luật sư trả lời.