Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 10:20:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Gia đình bạn cần xem lại toàn bộ hồ sơ, giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất đó. Nếu gia đình ông B đã đăng bộ (kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất) theo chỉ thị 299 và có tên trong sổ địa chính hoặc sổ đăng ký ruộng đất thì gia đình ông B có quyền đòi lại thửa đất của gia đình bạn.

    Nếu gia đình ông B đã có giấy tờ chuyển quyền sử dụng thửa đất đó cho gia đình ông A và gia đình ông A chuyển quyền sử dụng thửa đất đó cho gia đình bạn từ năm 1990 thì dù chỉ là giấy tờ viết tay nhưng gia đình bạn cũng có thể được công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Nghị quyết số  02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán. Bạn có thể tham khảo nội dung sau đây của Nghị quyết 02/2004/HĐTP:

    "2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)

    Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:

    a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

    b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

    b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;

    b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó."

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 05:48:23 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!


           Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    "Điều 14. Tổ chức đăng ký kết hôn

    Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.".
     

           Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 quy định:

    "Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không theo nghi thức quy định tại Điều 14 thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý, nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật mà áp dụng khoản 1 Điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Tuy nhiên cần chú ý:
    c.1. Điều 14 không quy định cụ thể địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn; do đó, địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn có thể là một nơi khác không phải là trụ sở của cả quan đăng ký kết hôn.
    c.2. Điều 14 quy định: "Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn". Thực hiện cho thấy rằng trong một số trường hợp vì những lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có một bên nam hoặc nữ; do đó, nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 (Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn) và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau, thì không coi là việc đăng ký kết hôn đó là không theo nghi thức quy định tại Điều 14
    ."

             Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì không có căn cứ để yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy kết hôn trái pháp luật. Nếu đủ điều kiện ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn và chia con, chia tài sản theo quy định tại Điều 92 và Điều 95, 96, 97, 98 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 05:01:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Theo thông tin bạn nêu thì người đó đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn và người thân của bạn nên có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Nếu bạn không biết về mục đích lừa đảo của người đó, không thỏa thuận với người đó về việc lừa tiền mua vé máy bay giá rẻ thì bạn không bị xử lý về hành vi lừa đảo...

          Mức hình phạt của anh đó phụ thuộc vào tổng số tiền mà anh đó đã chiếm đoạt và nhân thân của anh đó. Bạn tham khảo quy định của Bộ luật hình sự sau đây:

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 04:55:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bác!

            Theo thông tin bác nêu trên thì ngôi nhà đó là nhà ở thuê của Nhà nước. Bởi vậy, bác phải lập văn bản thỏa thuận về việc sang tên hợp đồng thuê nhà giữa bác và các thành viên đang đứng tên Hợp đồng thuê căn nhà đó và được Công ty quản lý và phát triển nhà đồng ý.

             Sau khi bác đứng tên trên hợp đồng thuê nhà ở với Nhà nước thì bác tiến hành chủ tục mua nhà ở theo Nghị định 61-CP, khi thủ tục mua bán nhà hoàn tất thì bác mới được đứng tên sở hữu hợp pháp căn nhà đó.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 02:53:09 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Nếu khi ly hôn, bạn và chồng bạn chưa yêu cầu tòa án giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng thì nay vợ bé của chồng bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế đối với phần tài sản của chồng bạn trong khối tài sản chung của vợ chồng bạn trước đây (ngôi nhà).

             Nếu tài sản chung của vợ chồng bạn đã được hai vợ chồng thỏa thuận phân chia bằng văn bản, có công chứng và đã được đăng ký sang tên hoặc Tòa án đã phân chia khi ly hôn thì bạn có quyền sở hữu tài sản theo thỏa thuận phân chia đó hoặc theo quyết định của Tòa án.

           Về nguyên tắc chồng bạn chết thì quyền thừa kế những di sản của chồng bạn (tài sản thuộc quyền sở hữu riêng và phần tài sản trong khối tài sản chung) thuộc về các thừa kế theo di chúc và theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 02:45:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Nếu người đó dùng số tiền của bạn vào mục đích phi pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ hoặc gian dối, bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền của bạn thì họ mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

           Nếu người đó vay tiền, nhận tiền góp vốn làm ăn nhưng nay kinh doanh thua lỗ, chưa có tiền trả, không phủ nhận số tiền đó và vẫn cam kết sẽ trả nợ (khi nào có tiền) thì chỉ là quan hệ dân sự, bạn muốn đòi tiền thì có thể khởi kiện vụ án dân sự để tòa án giải quyết.

           Nay bạn có thể gặp người đó để yêu cầu viết giấy nhận nợ và hẹn ngày trả nợ. Nếu họ không viết giấy nhận nợ và cam kết thời hạn trả nợ thì bạn có thể gửi đơn trình báo sự việc với Công an để được xem xét, giải quyết... buộc họ phải nhận nợ và cam kết trả nợ, từ đó có căn cứ để khởi kiện tranh chấp dân sự.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 02:38:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Gia đình bạn cần làm đơn trình báo gửi tới công an huyện nơi sự việc xảy ra để được xem xét. Trong đơn ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, điện thoại của người gửi đơn. Nội dụng mô tả rõ thời gian, không gian, địa điểm xảy ra sự việc; mô tả rõ đặc điểm nhận dạng của từng đối tượng, công cụ, phương tiện sử dụng vào việc trấn áp, uy hiếp; Lời nói, hành vi cụ thể của các đối tượng... cuối cùng yêu cầu xử lý về hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi hiếp dâm của các đối tượng trên.

    Gia đình bạn cũng có thể giữ nguyên hiện trường hoặc chụp ảnh hiện trường và những dấu vết do bọn chúng để lại để làm căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 02:16:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Nếu hai bên đã giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại (trách nhiệm dân sự) thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ không xem xét về trách nhiệm dân sự.

          Còn hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng (chết người) thì bạn của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự.

           Việc gia đình nạn nhân có đơn xin miễn, giảm trách nhiệm hình sự cho bạn của bạn chỉ là một tình tiết để các cơ quan tố tụng xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chứ không phải là căn cứ để dừng vụ án lại.

    Bạn tham khảo hình phạt quy định tại Điều 202 BLHS như sau:

    "Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 02:04:41 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Hiện nay vợ chồng bạn chưa ly hôn, chưa có bản án, quyết định của có hiệu lực pháp luật của Tòa án là giao con cho ai trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên cả vợ và chồng đều có quyền ngang nhau trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái.

            Nếu không thể chung sống được với nhau thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Con bạn chưa đủ 36 tháng tuổi nên tòa án sẽ giao con cho bạn nuôi dưỡng, khi đó nếu nhà chồng bạn không giao con thì bạn mới có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự can thiệp.

           Nay nếu mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng thì bạn có thể nhờ gia đình hoặc Hội phụ nữ can thiệp, hòa giải. Ngoài Tòa án ra, không có cơ quan nào có thể buộc chồng bạn phải giao con cho bạn lúc này.

  • Xem thêm     

    10/12/2012, 01:57:38 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            1. Cán bộ Tòa án trả lời bạn như vậy có thể cho là đúng nhưng không đầy đủ khiến đương sự hiểu sai về vụ việc và ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự.

             2. Nếu vợ bạn vẫn cư trú tại địa phương mà tòa án triệu tập hợp lệ để xét xử lần thứ hai, vợ bạn vẫn không đến Tòa án thì Tòa án sẽ căn cứ vào Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 để xét xử vắng mặt bị đơn (vợ bạn);

            3. Nếu vợ bạn không còn cư trú trên địa phương từ thời điểm bạn gửi đơn khởi kiện thì Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện vụ việc chưa đủ điều kiện khởi kiện (không xác định được nơi cư trú của bị đơn nên không xác định được thẩm quyền giải quyết vụ án theo Lãnh thổ...Điều 35 BLTTDS).

             Trong trường hợp này, cán bộ Tòa án cần hướng dẫn bạn gửi đơn yêu cầu tuyên bố vợ bạn mất tích theo quy định tại khoản 3, Điều 26 BLTTDS. Nếu vợ bạn đi khỏi nơi cư trú từ 2 năm trở lên mà gia đình đã áp dụng mọi biện pháp tìm kiếm vẫn không có kết quả thì Tòa án sẽ tuyên bố vợ bạn mất tích và cho bạn được ly hôn theo quy định tại khoản 2, Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình.

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 05:30:57 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bạn có thể đăng ký kinh doanh loại hình doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật doanh nghiệp, Hồ sơ bao gồm:

    "Hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân

    1. Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền quy định.
    2. Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác.
    3. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định.

    4. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.".

    - Bạn có thể tham khảo một số quy định về sản xuất, kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ, quy định tại Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về kinh doanh vàng, thay thế Nghị định số 174/1999/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    "Điều 5. Điều kiện hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ

    1. Doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

    a) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

    b) Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

    2. Ngân hàng Nhà nước quy định thủ tục và hồ sơ Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

    Điều 6. Trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ

    1. Thực hiện đóng mã ký hiệu và hàm lượng vàng trên sản phẩm, công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng của sản phẩm theo quy định pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm đã công bố do doanh nghiệp sản xuất.

    2. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm do doanh nghiệp thuê gia công.

    3. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn, chứng từ.

    4. Có phương án bảo đảm an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ.

    5. Bảo đảm duy trì các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định này.

    6. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

    Điều 7. Hoạt động gia công vàng trang sức, mỹ nghệ

    Cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã và doanh nghiệp được thực hiện gia công cho doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ và phải có đăng ký gia công vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

    Điều 8. Điều kiện hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ

    Doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

    1. Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

    2. Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ.

    Điều 9. Trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ

    1. Niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về khối lượng, hàm lượng vàng, giá mua, giá bán các loại sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường.

    2. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn chứng từ.

    3. Tuân thủ các quy định của pháp luật về đo lường.

    4. Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh.

    5. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan."...

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 05:07:45 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bạn có thể tham khảo văn bản tại: http://thuvienphapluat.vn/archive/Chi-thi/Chi-thi-717-TB-LB3-xet-cap-bang-To-quoc-ghi-cong-vb22975t1.aspx

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 05:01:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Việc ông bà bạn cho các con tài sản là quyền sử dụng đất (nếu tài sản thuộc quyền sở hữu của hai ông bà) và thủ tục tặng cho đã hợp pháp và hoàn tất về mặt thủ tục - Người được tặng cho được cấp CGNQSD đất thì tài sản đó không còn là tài sản, di sản của ông bà bạn nữa (đã chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp). Do vậy, nếu các thửa đất trên có văn bản tặng cho của ông bà bạn và các cô, bác bạn đã được cấp GCN QSD đất thì ông bà bạn cũng không đòi lại được phần đất đó;

    2. Những người con được bố mẹ tặng cho tài sản khi bố mẹ còn sống, đến khi bố mẹ qua đời để lại di sản không có di chúc thì người con đó vẫn được hưởng di sản theo pháp luật;

    3. Nếu bố bạn có văn bản giao quyền sử dụng đất của ông nội bạn và có chữ ký của các anh, chị, em của bố bạn trong văn bản đó, đồng thời bố bạn được cấp GCN QSD đất đối với diện tích đất đó thì diện tích đất đó không còn là tài sản, di sản của ông bà bạn nữa. Việc khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của bà nội bạn là không có căn cứ.

    Nếu việc bố bạn đứng tên trên thửa đất đó mà không có sự đồng thuận của tất cả các thừa kế của bà bạn, đồng thời bà bạn qua đời chưa quá 10 năm thì các cô, chú, bác bạn mới có thể khởi kiện để yêu cầu bố bạn phải chia đất.

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 04:29:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu di sản thừa kế đã hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế thì Tòa án chỉ có thể thụ lý giải, quyết, phân chia tài sản đó theo hình thức chia tài sản chung có nguồn gốc từ di sản thừa kế nếu thuộc một trong hai trường hợp quy định tại mục 2.4 phần I, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cụ thể như sau:

    "Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

    a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế

    hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

    Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

    a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

    a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

    a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

    b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.".

    Như vậy, để áp dụng quy định pháp luật trên để yêu cầu tòa án giải quyết chia tài sản chung thì cần phải:

    - "tìm ra", "lập ra" một sự thỏa thuận bằng văn bản của tất cả các thừa kế - Văn bản này phải được lập trong thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế (trường hợp thứ nhất);

    - Nếu trong thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế mà không có, chưa có văn bản thỏa thuận về phân chia di sản thì phải được sự đồng thuận của tất cả các thừa kế về việc tài sản đó có nguồn gốc và di sản và chưa chia thì Tòa án mới thụ lý, giải quyết.

    Lưu ý: Nếu hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế thì Tòa án chỉ không giải quyết về việc phân chia thừa kế đối với di sản đó. Người đang sử dụng được tiếp tục quản lý sử dụng. Chỉ được quản lý, sử dụng chứ không được quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản.

    Do vậy, các thừa kế khác có thể yêu cầu Tòa án hoặc UBND hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sở hữu về tài sản đó của người đang quản lý, ngăn chặn người đang quản lý định đoạt tài sản... và nhiều biện pháp khác để buộc người đang quản lý tài sản phải "xuống thang" để phân chia tài sản cho các thừa kế khác cùng sử dụng...

    Nếu có sự đồng thuận, thống nhất phân chia tài sản thì các thừa kế mới được đứng tên sở hữu hợp pháp và toàn quyền thực hiện các quyền của chủ sở hữu tài sản theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 10:13:30 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Chào bạn Lawminh!

    Danggoqng viết:

    "Năm 2006 Công ty tôi ký hợp đồng kinh tế để thi công một số công việc xây dựng với nhà thầu. "

             Luật thương mại hiện hành (2005) quy định:

    "Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

    1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.
    3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.
    Điều 2. Đối tượng áp dụng
    1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này.
    2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
    3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.
    Điều 3. Giải thích từ ngữ
    Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
    1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
    .........

    9. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

    ......".

    Theo thông tin mà bạn Dangdoqng cung cấp thì tranh chấp mà bạn đó nêu là tranh chấp giữa hai Công ty (có đăng ký kinh doanh) liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ... do vậy thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại.

    Nếu hai chủ thể không có đăng ký kinh doanh (thương nhân), tham gia giao dịch không nhằm mục đích sinh lợi thì mới áp dụng luật dân sự?!

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 09:49:51 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     

    Chào bạn!
    Điều 135 Luật đất đai quy định tranh chấp về quyền sử dụng đất bắt buộc phải thông qua hòa giải cơ sở thì tòa án mới giải quyết. Đối với các vụ việc tranh chấp khác thì không bắt buộc phải hòa giải cơ sở.

    Nếu các tranh chấp dân sự mà một trong các Bên gửi đơn tới UBND xã để yêu cầu hòa giải thì UBND xã vẫn có thể tổ chức hòa giải. Tuy nhiên việc tham gia hòa giải của các Bên là không bắt buộc... Nếu vụ việc đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì UBND xã không tổ chức hòa giải nữa mà phải hướng dẫn cho đương sự gửi đơn khiếu nại tới người có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm để xem xét lại bản án, quyết định đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc thủ tục đặc biệt theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.n Nếu có hòa giải thì chỉ hòa giải để các Bên tự nguyện thi hành án theo quyết định của Bản án, quyết định đã có hiệu lực đó (theo Luật thi hành án).

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật tố tụng dân sự:

    Điều 168. Trả lại đơn khởi kiện

    1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

    a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;

    b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

    c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;

    d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;

    đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;

    e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

    2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.

     

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 09:33:38 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     

    Trieuphu_hy viết:

    "Luatsuduclong viết:

    Chào bạn! Luật sư Nguyễn Đức Long tư vấn thêm như sau:

    1. Thủ tục yêu cầu Toà án cho ly hôn và xét xử vắng mặt bạn tham khảo luật sư Đinh Thị Quỳnh Như.

    2.. Tài sản:

    - Loại tài sản: Theo như thông tin bạn cung cấp, bố mẹ bạn kết hôn từ năm 1984 trở về trước nên thuộc sự điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.

    Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.

    Cho nên, tài sản đứng tên bố của bạn cho dù là tài sản riêng có trư­ớc hoặc sau khi kết hôn vẫn là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng chung của bố mẹ bạn.

    - Chia tài sản khi ly hôn: Theo quy định trên thì việc chia tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi.

     

     

    luật sư long có thể cho cháu hỏi là nếu kết hôn từ năm bao nhiêu thì sử dụng luật luật hôn nhân gia điình 1959 ?

    và cho cháu hỏi là kết hôn trong thời gian nào thì phải sử dụng luật hôn nhân mới ạ mà không bị chi phối bởi luật hôn nhân mới ra ạ ?

      ví dụ đăng ký kết hôn năm 1984 sao không chịu chi phối luật hôn nhân năm 2000

    và cho e hỏi văn bản nào hướng dẫn nào hướng dẫn điều này?"

    Luật sư trả lời bạn như sau:

    Từ khi nước Việt Nam ra đời (1945) cho tới nay, nước ta đã có 3 luật hôn nhân và gia đình: - Luật hôn nhân đầu tiền năm 1959  (có hiệu lực từ 01/01/1960 đến ngày 13/01/1987 tại Miền Bắc XHCN và có hiệu lực từ ngày 25/3/1977 - 13/01/1987 tại Miền Nam);

    - Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 (có hiệu lực từ 13/01/1987 đến ngày 01/01/2001)

    - Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (hiệu lực từ 01/01/2001 đến nay). 

     

    Theo đó, quan hệ hôn nhân là loại quan hệ tồn tại trong một thời gian dài. Nhà nước ta đã 3 lần ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình (1959, 1986, 2000 như đã nêu ở trên). Thời kỳ hôn nhân của một quan hệ hôn nhân có thể bắt đầu trước khi ban hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đang có hiệu lực và chấm dứt ở thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đang có hiệu lực (kết hôn năm 1965 và ly hôn năm 1995, chẳng hạn). Vấn đề đặt ra là, áp dụng Luật hộ nhân và gia đình ở thời điểm nào (khi kết hôn hay khi ly hôn) để giải quyết tranh chấp về quan hệ Hôn nhân và Gia đình...

    Thực tiễn cho thấy trong quá trình xét xử còn có nhiều Thẩm phán hiểu chưa đúng hiệu lực áp dụng của Luật Hôn nhân và Gia đình và do vậy, đã không xác định đúng tính chất của quan hệ hôn nhân (hợp pháp hay không hợp pháp), tính chất pháp lý của tài sản (tài sản riêng hay tài sản chung) nên đã xác định không đúng về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Trong nhiều đơn khiếu nại, kháng cáo, Tòa án thường gặp câu hỏi là: "Tại sao quan hệ hôn nhân của cha mẹ chúng tôi đã chấm dứt từ lâu mà lại mang pháp luật hiện nay ra để áp dụng, soi xét?". Và cũng có câu hỏi ngược lại: "Tại sao Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 đã hết hiệu lực, Tòa án vẫn còn áp dụng để phán quyết tài sản riêng là tài sản chung?".

    Đối với việc giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm thụ lý vụ án. Nhưng đối với những việc xin chia thừa kế thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm mở thừa kế. Từ việc xác định được tính chất của quan hệ hôn nhân mới xác định đúng được các quyền, nghĩa vụ cụ thể. Xác lập quan hệ tài sản, sở hữu thì căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản...

     

  • Xem thêm     

    09/12/2012, 08:24:29 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ luật dân sự có quy định về sở hữu chung, trong đó có rất nhiều loại sở hữu chung: Sở hữu chung vợ chồng, sở hữu chung hộ gia đình...

    Nếu là tài sản thuộc sở hữu chung "vợ chồng" thì khi phân chia chỉ chia cho vợ và chồng chứ không chia cho các con. Nếu các con có công sức làm tăng giá trị tài sản chung vợ chồng thì phần giá trị tăng lên đó được trả lại cho các con khi vợ chồng chia tài sản..

    Nếu tài sản đó là "sở hữu chung của hộ gia đình" thì khi ly hôn mới chia cho các thành viên trong hộ gia đình.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của luật hôn nhân và gia đình năm 2000:

    "Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết

    Điều 96. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn

    1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.

    Điều 97. Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn

    1. Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.

    2. Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

    a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật này.

    Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;

    b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;

    c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này;

    d) Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.

    3. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 96 của Luật này.

    Điều 98. Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng

    Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; nếu không thể chia được thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng.

    Điều 99. Giải quyết quyền lợi của vợ, chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên

    Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà, nhưng phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà."

  • Xem thêm     

    08/12/2012, 09:10:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu muốn tố cáo thì bạn có thể gửi đơn tới công an phường hoặc công an quận nơi bạn giao tiền cho họ để được xem xét, giải quyết. Bạn lưu ý là phải tố cáo cá nhân và nêu hành vi cụ thể của cá nhân đó... Nếu bạn tố cáo công ty chung chung mà không nêu hành vi, trách nhiệm của con người cụ thể trong công ty đó thì rất khó giải quyết... Doanh nghiệp đó được thành lập theo Luật doanh nghiệp và cơ quan quản lý về đăng ký kinh doanh là Sở kế hoạch và đầu tư. Lĩnh vực hoạt động liên quan đến giáo dục thì còn có sự quản lý về nội dung của Bộ giáo dục và Đào tạo.

  • Xem thêm     

    08/12/2012, 09:00:11 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Về mặt pháp lý, xe máy là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Ai đứng tên trên đăng ký xe sẽ được xác định là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe đó. Việc chuyển quyền sở hữu tài sản sang người khác phải được thực hiện thông qua một văn bản, có công chứng, chứng thực và được đăng ký, sang tên theo quy định. Nếu mua bán, chuyển nhượng mà không có công chứng, chứng thực và chưa được sang tên là không hợp pháp...

    Theo quy định của pháp luật hiện hành thì bạn chỉ có một cách duy nhất là người đứng tên trên giấy đăng ký xe ký kết hợp đồng bán, tặng cho... có công chứng, chứng thực thì bạn mới có thể sang tên, đứng tên được chiếc xe đó... Nếu bạn không thực hiện được điều đó thì chỉ còn cách là chờ quy định mới của pháp luật.

    Hiện nay, có một số nơi bán xe máy cũ ở HN có "dịch vụ" sang tên xe máy rất nhanh gọn... Tuy nhiên, giá trị pháp lý của những đăng ký xe kiểu đó thì còn nhiều điều phải "xét"...