Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

25 Trang «<17181920212223>»
  • Xem thêm     

    19/04/2018, 11:17:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Trường hợp của bạn là bị đối tượng trên có dấu hiệu lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản. Do vậy bạn cần làm đơn tố cáo toàn bộ sự việc trên với cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận, Huyện để bảo vệ quyền lợi của mình.

  • Xem thêm     

    19/04/2018, 05:04:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Bạn vay tiền nhà cai để đánh bạc và có giấy vay nợ, hiện tại cũng không có bất kì tài sản nào để bảo đảm cho việc trả nợ.
    Hành vi cho vay trong trường hợp này có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự theo điều 322 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Tuy nhiên chúng tôi không đề cập nhiều đến vấn đề hình sự ở đây mà chỉ đề cập đến vấn đề dân sự.
    Về dân sự
    Quan hệ vay tiền được điều chỉnh bởi BLDS 2015 bằng hợp đồng vay tài sản, theo đó, tại điều 117 luật này quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là: “ c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”
    Trong trường hợp này, bạn vay tiền của nhà cái( người tổ chức đánh bạc hoặc người gá bạc) để đánh bạc. Như vậy, mục đích của việc vay và cho vay là vi phạm điều cấm của luật, do đó hợp đồng vay cũng đã vi phạm điều cấm của luật và sẽ bị vô hiệu theo điều 122 BLDS 2015: “ Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu…”
    Căn cứ điều 131 BLDS 2015:
    “Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu     
    1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
    Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
    3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
    4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
    5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
    Khi hợp đồng vay bị hiệu các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bạn có nghĩa vụ trả lại tiền cho người cho vay, nếu bạn không tự nguyện trả và người cho vay có yêu cầu thì cơ quan thi hành án sẽ kê biên tài sản của bạn để thi hành bản bán. Trường hợp bạn không có bất cứ tài sản nào để thực hiện nghĩa vụ thì sẽ bị khấu trừ vào thu nhập cho tới khi hoàn thành nghĩa vụ.
    Như vậy, hợp đồng vay tiền để đánh bạc sẽ bị vô hiệu và hai bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Nếu bạn không tự nguyện trả nợ và người có quyền yêu cầu thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành kê biên tài sản hoặc khấu trừ vào thu nhập cho đến khi bạn hoàn thành nghịa vụ.

  • Xem thêm     

    18/04/2018, 11:20:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Vấn đề bạn hỏi nên tham khảo các nhà khoa học chuyên về lĩnh vực thực vật cây trồng để họ xem xét xem giống cây trồng có chứa chất ma tuý hoặc tiền chất ma tuý không. Còn vấn đề có hay ko chứa thì chúng tôi không thuộc chuyên môn nên bạn phải cố gắng tham khảo các nhà chuyên môn.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    18/04/2018, 11:11:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự  sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

    Khoản 1 Điều 175 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Bộ luật hình sự hiện hành quy định: “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…”

    Trong trường hợp của bạn, nếu người cho bạn số tài khoản để bạn chuyển khoản ngay từ đầu đã có ý định chiếm đoạt số tiền mà bạn gửi và không giao hàng thì hành vi đó cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì có hành vi gian dối xảy ra trước hành vi chiếm đoạt. Nếu, sau khi bạn chuyển khoản, người đó mới có ý định không giao hàng cho bạn mà chiếm đoạt luôn số tiền mà bạn đã chuyển thì hành vi đó có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Theo Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:

    “Điều 143. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

    Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

    1. Tố giác của cá nhân;

    2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

    3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

    4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;

    5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;

    6. Người phạm tội tự thú.”

    Trường hợp của bạn là bị đối tượng trên có dấu hiệu lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản. Do vậy bạn cần làm đơn tố cáo toàn bộ sự việc trên với cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận, Huyện nơi người đó đó đang hoạt động, bạn cần kèm theo các chứng từ đã chuyển khoản cũng như các thông tin trao đổi qua lại giữa bạn và tài khoản đó trong những lần giao dịch trước và sau khi chuyển tiền.

    Nếu sự việc trên là đúng sự thật bạn cũng có thể cảnh báo sự việc để mọi người cùng biết và Bạn có thể lan truyền trên mạng xã hội nhưng nên ở hình thức tường thuật lại vụ việc, không được kết tội họ là lừa đảo ngay.

  • Xem thêm     

    18/04/2018, 01:33:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Bạn bị hai người xông vào tận nhà đánh dẫn đến hậu quả gây thương tích là hành vi vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này để đảm bảo lợi ích chính đáng của mình thì bạn nên đến cơ quan y tế để giám định thương tật. Nếu tỉ lệ thương tật từ 11% trở lên thì những người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm……”

    Còn nếu tỷ lệ thương tật của bạn dưới 11% hoặc không thuộc các trường hợp tại khoản 1 điều 134 BLHS đã nêu trên thì những người này chỉ bị xử lý vi phạm hành chính. Theo điểm e khoản 3 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ – CP thì đối với hành vi xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe người khác thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng. Bạn nên trình báo hoặc tố cáo với cơ quan công an để xử lý theo quy định.

  • Xem thêm     

    16/04/2018, 10:23:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Bản cam kết trên là một loại hành vi pháp lý đơn phương vì nó thể hiện ý chí tự ràng buộc với bản cam kết đó của người viết cam kết. Do đó, người có quyền có quyền yêu cầu người cam kết thực hiện nghĩa vụ phát sinh. Nếu phát sinh thiệt hại hoặc vi phạm cho phía người có quyền do người cam kết không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết thì người cam kết chịu trách nhiệm pháp luật. Thực tế hiện nay Cam kết tồn tại dưới muôn hình vạn trạng, pháp luật không thể quy định chi tiết tất cả các loại trong các văn bản pháp lý được mà chúng ta có thể dựa vào những quy định chung nhất để xác định nó thuộc loại nào mà thôi.

  • Xem thêm     

    11/04/2018, 04:01:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Pháp luật hiện nay chưa quy định cụ thể về vấn đề bạn đang hỏi. Tuy nhiên trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định tội danh này  tại điều 247 vơi tiêu đề cụ thể hơn là: Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy.’’ Cụ thể:

    Điều 247: Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chưa chất ma túy.

    1. Người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã được giáo dục 02 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống;

    b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây......

    Cây anh túc(Cây thuốc phiện) thuộc họ Anh túc (Papaveraceae). Được xem là cây dược liệu quý. Trong y học dùng cho giảm đau tốt nhất trong các loại dược liệu cả Đông lẫn Tây y. Chiết suất của cây này làm gây nghiện nặng. Ngành y học khuyến cáo không nên dùng trong các trường hợp thông thường, phải có sự chỉ định chi tiết và giám sát trực tiếp của bác sĩ. Việc lạm dụng quá mức có thể gây nghiện. Chính phủ Việt Nam đã cấm trồng cây này,

    Nhằm cụ thể hóa, tránh nhầm lẫn giữa các loại cây có chứa chất ma túy, tiền chất ma tuý… thì bạn phải tìm hiểu kỹ giống cây giống hoa "Anh túc California" có chứa hay không? Nếu cây có chứa chất ma tuý thì là loại cây cấm trồng, còn nếu cây không chứa thì bạn sẽ được chồng.

  • Xem thêm     

    09/04/2018, 02:08:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Theo như thông tin bạn cung cấp thì bạn đã cho vay bạn số tiền là 40 triệu đồng để giải quyết việc gia đình. Hiện nay người làm công đó đã chuyển chỗ ở, chặn mọi hình thức liên lạc với bạn; như vậy đã có dấu hiệu bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ và chiếm đoạt số tiền đã vay. Vì vậy với số tiền bạn đã cho vay và những hành vi của người đó, bạn có thể tố giác tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi nổ sung 2017.

    Điều 174 BLHS quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…”

    Theo đó, trước tiên bạn cần làm đơn tố cáo đến cơ quan công an nơi bạn cư trú. Sau khi xem xét và xác định cơ quan có thẩm quyền, cơ quan công an sẽ làm thủ tục chuyển quyền điều tra vụ án cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nội dung đơn tố cáo bao gồm : họ tên, địa chỉ của người tố cáo; họ tên, chức vụ, hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; những yêu cầu liên quan của người tố cáo. Dựa theo đơn tố cáo của bạn, vụ việc sẽ được xem xét có đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hay không theo quy định.

  • Xem thêm     

    06/04/2018, 09:59:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm “giao cấu” được hiểu:“Giao cấu là việc giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái, ở động vật, để thụ tinh”

    Ngoài ra, năm 1967 Tòa án nhân dân tối cao có một văn bản tổng kết về tình trạng tội phạm hiếp dâm có nhắc đến khái niệm “giao cấu”. Cụ thể  “giao cấu là hành động chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”

    Ông Đỗ Văn Đương, viện phó viện khoa học kiểm sát thuộc viện kiểm sát nhân dân tối cao, định nghĩa hành vi giao cấu như sau:

    Hành vi giao cấu trong Pháp lệnh Phòng chống mại dâm không chỉ hiểu là giữa nam với nữ, mà diễn ra cả giữa những người đồng giới. Giao cấu được hiểu là việc đưa bộ phận sinh dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt là đồng giới hay khác giới. Như vậy, nếu một người chủ động sử dụng bộ phận sinh dục của mình để “quan hệ” với người khác (không nhất thiết phải là hai bộ phận sinh dục với nhau) thì là giao cấu. Còn nếu chỉ sử dụng tay, chân… tác động vào bộ phận sinh dục của người khác thì coi là dâm ô…

    Giao cấu, theo cách ông Đỗ Văn Đương định nghĩa, thực chất là quan hệ tình dục. Có điều ông không đủ can đảm để thay đổi từ ngữ trong luật (không thay giao cấu bằng quan hệ tình dục) trong khi vẫn định nghĩa ỡm ờ hành vi giao cấu bằng cách dùng từ quan hệ trong dấu nháy nháy.

  • Xem thêm     

    05/04/2018, 04:00:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Trường hợp này vì hai bạn quan hệ tự nguyện và bạn gái đã 14 tuổi nên sẽ thuộc trường hợp tội giao cấu với người vị thành niên, Điều 145 Bộ luật hình sự hiện hành quy định: “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

    1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm….

    Cũng tại Điều 90 Bộ luật hình sự hiện hành thì Áp dụng Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

    “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

    Dựa vào các quy định trên, người chưa thành niên phạm tội là người phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi”.

    Đối với tội giao cấu với trẻ em thì chủ thể của tội phạm phải là người đã thành niên, bạn đã 19 tuổi, là người đã thành niên nên sẽ phải là chủ thể của tội giao cấu với với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

  • Xem thêm     

    05/04/2018, 10:30:07 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Theo thông tin bạn cung cấp, có thể thấy người đó đã nhận tiền và hứa sẽ chạy xin việc. Tuy nhiên sau một thời gian nhất định mà người đó vẫn chưa thực hiện được cam kết của mình. Bạn đã đòi lại tiền nhưng vẫn còn 10 triệu. Với những hành vi này, người đó có thể chịu trách nhiệm:

    Về Trách nhiệm hình sự:

    Căn cứ Điều 139 Bộ Luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản(Thời điểm bộ luật vẫn còn hiệu lực)

    "Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm"

    Về trách nhiệm dân sự:

    Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 "Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác"

    Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

    "1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

    b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

    c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

    2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định."

    Hai giao dịch dân sự giữa người nhà bạn với người nhờ xin việc và người trên danh nghĩa chạy việc có mục đích là dùng tiền bằng cách nào xin việc. Xét về khía cạnh chuẩn mực đạo đức xã hội pháp luật không đảm bảo về giao dịch dân sự, tức không đủ điều kiện tại Điểm c Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015. Do đó giao dịch dân sự vô hiệu.

    Căn cứ vào quy định theo Điều 122 Bộ Luật Dân sự năm 2015 như trên thì giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận khôi phục tình trạng ban đầu. Trường hợp của bạn vì bên danh nghĩa chạy việc không trả người nhà bạn có thể khởi kiện vụ án dân sự để  đòi lại khoản tiền.

  • Xem thêm     

    05/04/2018, 09:31:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Tốt nhất bạn nên hòa giải, thương lượng với người bạn trai của chi về hậu của của hành vi này. Nếukhông thành công thì bạn nên dần dần thu thập chứng cứ để tố cáo với cơ quan công an nơi bạn gái cư trú như những tin nhắn giữa hai người, tin nhắn đe dọa, chửi bới hay hình của bạn.

    Khi bạn tố cáo sự việc với cơ quan công an thì công an sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ. Nếu xác minh được có sự việc xảy ra thì cơ quan công an sẽ tiến hành các công tác nghiệp vụ như yêu cầu người banj gái của bạn lên cơ quan chức năng để điều tra, làm rõ sự việc...

  • Xem thêm     

    04/04/2018, 10:44:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các cá nhân, tổ chức chỉ được sử dụng hình ảnh của người khác khi đã được sự đồng ý của họ. Người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

    Do đó, việc đe dọa đăng clip có hình ảnh của chị lên mạng của người bạn gái kia là trái quy định của pháp luật. Nếu những hình ảnh này bị phát tán liên mạng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và danh dự của bạn. Tốt nhất bạn nên hòa giải, thương lượng với người bạn trai của chi về hậu của của hành vi này. Nếukhông thành công thì bạn nên dần dần thu thập chứng cứ để tố cáo với cơ quan công an nơi bạn gái cư trú như những tin nhắn giữa hai người, tin nhắn đe dọa, chửi bới hay hình của bạn.

    Khi bạn tố cáo sự việc với cơ quan công an thì công an sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ. Nếu xác minh được có sự việc xảy ra thì cơ quan công an sẽ tiến hành các công tác nghiệp vụ như yêu cầu người banj gái của bạn lên cơ quan chức năng để điều tra, làm rõ sự việc...Trong quá trình giải quyết vụ việc, cơ quan công an sẽ có nghĩa vụ phải giữ bí mật thông tin và chắc chắn bạn có thể yêu cầu cơ quan công an không tiết lộ thông tin về vụ việc.

    Tùy vào hành vi vi phạm pháp luật của người yêu cũ: dùng clip để đe dọa chị, tung hình ảnh, clip quan hệ tình cảm của chị lên mạng, có những hành vi chửi bới, xúc phạm... khi đó người này có thể bị:

    - Xử phạt vi phạm hành chính cho hành vi sử dụng Facebook, trang mạng để đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của bạn.

    - Yêu cầu bồi thường do danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm theo Điều 611 BLDS (bạn chỉ được bồi thường khi có đơn khởi kiện tại Tòa án).

    - Khởi tố vụ án, khởi tố bị can nếu bạn gái của bạn có dấu hiệu của tội phạm. Cụ thể như tội làm nhục người khác,tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, cưỡng đoạt tài sản...

  • Xem thêm     

    04/04/2018, 10:09:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như sau:

    “1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm….”

    Trong trường hợp nêu trên, hành vi của A là sử dụng giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức nhằm để lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân. Nhưng A chưa dùng để nhằm để lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân một lần nào nên A không phải là tội phạm

  • Xem thêm     

    04/04/2018, 10:03:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Nên C không thể coi là đồng phạm

    Tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:….”

    Như vậy, việc xác định tỷ lệ thương tật làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật hình sự hiện hành. Trường hợp tỉ lệ thương tật của người người bị hại từ 11% trở lên thì mới đủ yếu tố cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo, trường hợp bạn nêu tỉ lệ thương tật của mới chỉ 1% thì chưa đủ yếu tố cấu thành Tội phạm nên cũng không thể coi là có đồng phạm ở đây.

  • Xem thêm     

    04/04/2018, 01:36:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    Như vậy, chỉ có chi phí hợp lý, nếu chi phí mà bên BHYT chi trả thì bên bạn không phải chi trả theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    04/04/2018, 01:31:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

     

    Để thực hiện các thủ tục liên quan đến việc xử lý nợ xấu, phía ngân hàng cần đáp ứng các điều kiện tại khoản 2 điều 7 về quyền thu giữ tài sản bảo đảm và trình tự thủ tục căn cứ tại nghị quyết 42/2017/QH14, cụ thể theo quy định tại khoản 3,4,5 điều 7:

    3. Chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện công khai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ theo quy định sau đây:

    a) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

    b) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm;

    c) Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;

    d) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.

    5. Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.”

    Như vậy, khi tiến hành xử lý nợ xấu, phía ngân hàng cần thông báo trước đó ít nhất 15 ngày đến bên bảo đảm tài sản, chính quyền địa phương các cấp và cơ quan công an nơi có tài sản bảo đảm nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Nếu như sau khi thông báo đầy đủ với bên bảo đảm, mà đến ngày tiến hành thu giữ tài sản bên bảo đảm trốn tránh, không có nhà thì bắt buộc phải có sự có mặt của chính quyền địa phương và cơ quan công an khi ngân hàng bạn tổ chức thu giữ tài sản, theo căn cứ tại khoản 7 điều 7:

    7. Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết này.”

    Do đó, việc phá khoá tài sản bảo đảm là nhà ở của người bảo đảm mà không có mặt của chính quyền địa phương và cơ quan công an là sai quy định pháp luật, sai trình tụ thủ tục xử lý tài sản.

    Trường hợp này, nếu tài sản bị hư hỏng có tổng giá trị tính ra tiền dưới 2 triệu đồng thì có thể bị xử phạt hành chính và bồi thường khoản tiền tương ứng với thiệt hại xảy ra.Trường hợp tài sản bị hư hỏng từ 2 triệu đồng trở lên có thể tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự số 2015. Tuy nhiên, để xác định mức thiệt hại, cần mời cơ quan có thẩm quyền đánh giá mức độ thiệt hại tài sản của bên bị hại để làm căn cứ xử lý theo khung hình phạt đã quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    02/04/2018, 10:47:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Trong trường hợp có xảy ra tai nạn giao thông , việc xem xét đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hình sụ trước pháp luật sẽ căn cứ vào yếu tố lỗi , bên nào có lỗi trong việc gây ra tai nạn thì bên dó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc gây tai nạn của mình , 

    Trường hợp thứ nhất: Bạn không tuân thủ đúng quy định về Luật giao thông đường bộ 2008 Khi bạn không tuân thủ đúng quy định gây tại nạn giao thông, ngoài việc bị phạt theo Luật Giao thông đường bộ quy định thì bạn sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.

    Căn cứ theo Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

    Như vậy, ngoài các khoản bồi thường liên quan đến chi phí khám chữa bệnh, bạn còn phải bồi thường về thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại cũng như những người chăm sóc người bị thiệt hại. Bên cạnh đó còn phải bù đắp tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên mức bù đắp tổn thất tinh thần này sẽ do các bên thỏa thuận, không thỏa thuận được thì mức tối đa cho người bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

    Nếu bạn đã bồi thường đầy đủ và hợp lý cho quá trình điều trị của người bị thiệt hại mà người này vẫn có ý định đòi thêm tiền, bạn có thể đưa vấn đề này ra Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình.

    Trường hợp thứ hai: Bạn tuân thủ đúng các quy định của Luật giao thông đường bộ 2008.

    Căn cứ vào Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

    “Điều 584: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

    1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

    Theo quy định trên, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa vào yếu tố lỗi của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.

    Vậy, nếu lỗi là của bên bị thiệt hại (người phụ nữ) thì bạn hoàn toàn không phải chịu bất kỳ trách nhiệm bồi thường nào kể cả về chi phí điều trị của người này.

  • Xem thêm     

    31/03/2018, 10:49:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Căn cứ vào khoản 2 điều 32 nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về kinh phí thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án:

    “2. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án được quy định như sau:

    a) Kinh phí thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được tính vào kinh phí thực hiện dự án đầu tư;

         …

     d) Trường hợp chủ đầu tư tự nguyện ứng trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì có trách nhiệm bảo đảm kinh phí thực hiện các dự án không thuộc trường hợp quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản này”.

    Căn cứ vào quy định này thì việc chi trả kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là trách nhiệm của chủ đầu tư

    Căn cứ điều 68 Luật đất đai thì khi tiến hành thu hồi đất, sẽ có tổ chức được thành lập ra để tiến hành làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Doanh nghiệp không có nhiệm vụ đứng ra thực hiện công tác giải phóng mặt bằng. UBND cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất, sau đó tiến hành giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sang cho chủ dự án.

    2. Việc quyết toán chi trả kinh phí bồi thường

    Do thông tin không đầy đủ nên chúng tôi mặc định trường hợp của gia đình bạn như sau: Trường hợp phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước 1/7/2014 thì việc sử dụng, thanh quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư được thực hiện theo thông tư 57/2010/TT-BTC. Cụ thể như sau:

    Sau khi Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường lập dự toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

    Căn cứ dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt: Chủ đầu tư hoặc Quỹ phát triển đất hoặc Kho bạc Nhà nước thực hiện chuyển tiền hoặc chuyển vốn ứng hoặc chuyển vốn tạm ứng cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường theo tiến độ thực hiện.

    Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày hoàn thành công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường có trách nhiệm tập hợp chứng từ chi phí thực tế đã sử dụng của dự án, lập báo cáo quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã nhận và sử dụng của dự án, gửi cơ quan tài chính để phê duyệt quyết toán

    Cơ quan tài chính phê duyệt quyết toán và có văn bản thông báo số quyết toán được duyệt cho chủ đầu tư.

    Tổ chức được giao thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có trách nhiệm quản lý hồ sơ quyết toán gồm: bản quyết toán đã được phê duyệt và chứng từ liên quan đến báo cáo quyết toán kinh phí thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án.

    3. Xử lý sai phạm trong công tác chi trả kinh phí bồi thường

    Sau khi hoàn thành quyết toán về kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; chủ đầu tư được bàn giao mặt bằng. Chủ đầu tư  có nghĩa vụ phải trả khoản tiền này cho gia đình bạn vì họ đã hoàn thành xong nghĩa vụ. Việc lập phương án bồi thường và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ là do tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện. Bạn có thể yêu cầu chủ đầu tư trả lời bằng văn bản lý do tại sao và lấy đó làm căn cứ khiếu nại hành chính. Trường hợp không giải quyết được thì khởi kiện ra tòa. Tuy nhiên do dự án đã được bàn giao nên việc xác định trách nhiệm khó khăn. Việc xác định sai phạm và xử lý sai phạm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nguyên nhân gây ra sai phạm, cần xem xét hồ sơ, giấy tờ có liên quan. Cách tốt nhất bạn nên mang hồ sơ hoặc liên hệ để được tư vấn và đưa ra hướng giải quyết.

  • Xem thêm     

    31/03/2018, 10:30:09 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần
    Lawyer

    Căn cứ Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự quy định, từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Với trường hợp của bạn, nếu bạn nhận tặng cho nhà đất trước giai đoạn bản án đã có hiệu lực pháp luật mà nhà đất có được thuộc quyền sở hữu sủ dụng hợp pháp của bạn nên không thể dùng để thi hành án và sẽ không bị coi là tẩu tán tài sản. Còn nếu bạn nhận tặng cho nhà đất khi có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà nhà đất bạn có được được thì tài sản này được dùng để thi hành án.

25 Trang «<17181920212223>»