Chào bạn Rubybjbj!
Trường hợp thửa đất của chồng bạn Luật không quy định rõ ràng do vậy sẽ có hai quan điểm khác nhau về tài sản chung và tài sản riêng, cụ thể như sau:
Quan điểm 1: Xác định là tài sản chung bởi chồng bạn đã dùng tiền lương trong trong thời kỳ hôn nhân để thanh toán cho số tiền chuyển nhượng đó. Do vậy, nguồn gốc tài sản đó được tạo ra từ thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (Khoản 1, Điều 27 Luật HN&GĐ).
Nếu giao dịch thực hiện trước khi kết hôn nhưng giao dịch hoàn tất sau khi kết hôn, sau khi kết hôn chồng bạn mới được cấp GCN hoặc đến thời điểm ly hôn giấy chứng nhận được đứng tên hai vợ chồng thì tôi đồng ý với Quan điểm này: Tài sản chung (Tôi vừa tham gia một vụ án tương tự).
Quan điểm 2: Xác định là tài sản riêng của chồng bạn bởi các lý do sau: Theo quy định của BLDS và Luật đất đai thì HĐCNQSD đất có hiệu lực từ khi đăng ký. Nếu thủ tục chuyển nhượng đã hoàn tất trước thời điểm kết hôn, chồng bạn đã được cấp giấy chứng nhận trước thời điểm kết hôn thì đó là tài sản riêng của chồng bạn "có trước khi kết hôn" theo quy định tại khoản 1, Điều 32 Luật HN&GĐ. Quyền sở hữu tài sản được xác lập trước khi kết hôn. Việc dùng tiền lương trong thời kỳ hôn nhân để thanh toán chỉ là TRẢ NỢ chứ không phải là số tiền để mua tài sản. Đồng thời Tòa án có thể chỉ chấp nhận cho bạn được hưởng một phần giá trị trong khoản tiền lương mà chồng bạn đã bỏ ra trong thời kỳ hôn nhân. Chồng bạn dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng thì chồng bạn chỉ phát sinh nghĩa vụ đối với phần tài sản chung đó thôi, còn tài sản riêng vẫn là riêng.
Thực tiễn xét xử của Tòa án rất phức tạp, ("DÂN SỰ SÁNG ĐÚNG, CHIỀU SAI, ĐẾN MAI LẠI ĐÚNG" bởi pháp luật chỉ quy định chung chung còn thực tế lại muôn hình, vạn trạng, quan điểm giải quyết vụ án của các Thẩm phán lại có nhiều khác nhau nên đôi khi TÒA XỬ THẾ NÀO CŨNG ĐÚNG!) Tòa án tuyên là tài sản chung hay tài sản riêng thì đều có cách giải thích của họ. Nhưng tôi chắc chắn là trong trường hợp này bạn sẽ được chia một phần, còn phần là bao nhiêu thì không thể biết trước được.
Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều tham luận, hướng dẫn thống nhất giải quyết các vụ án kiểu này, bạn có thể tìm đọc các Báo cáo tổng kết ngành để biết thêm cái nhìn của Nhà Tòa):
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.