Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

52 Trang «<36373839404142>»
  • Xem thêm     

    30/03/2012, 09:08:52 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:

    Điều 4. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    1. Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

    2. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi.

    Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

    Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong gia đình.

    3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được  xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.

    Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa  án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng

    Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

               Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì vợ bạn đã không chung thủy với bạn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Tuy nhiên, hành vi ngoại tình, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng của vợ bạn với người khác chỉ vi phạm đạo đức, phẩm hạnh của người vợ chứ chưa đến mức phải xử lý hình sự (Chưa phải là chung sống như vợ chồng gây hậu quả nghiêm trọng). Do vậy, nếu còn muốn cứu vãn hạnh phúc gia đình thì bạn cần nhờ vợ bạn hoặc nhờ gia đình, đoàn thể, cơ quan tổ chức hòa giải. Nếu hòa giải không có kết quả thì bạn có thể yêu cầu ly hôn. Còn đối với gã người tình kia thì bạn có chỉ có thể nói chuyện với anh ta và yêu cầu anh chấm dứt hành vi đó. Nếu anh ta không nghe thì  bạn có quyền trình báo sự việc với chính quyền địa phương, cơ quan đoàn thể nơi anh ta làm việc để được can thiệp kịp thời. Tuy nhiên kết quả sẽ không cao bởi đó là “việc cá nhân”.

  • Xem thêm     

    29/03/2012, 10:24:01 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    29/03/2012, 10:21:14 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời như sau;
    1. Theo thông tin bạn nêu thì khi còn sống, bố mẹ có tặng cho (chia) đất cho hai người con. Khi chia (tặng cho) nhà đất đó, bố mẹ cũng không có điều kiện là những người con đó phải từ chối nhận di sản thừa kế của cha mẹ sau này. Do vậy, các người con đó không mất quyền thừa kế.
    2. Nếu bố mẹ không để lại di chúc thì di sản sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS. Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây:
    Ðiều 642. Từ chối nhận di sản

     1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

     2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

     3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

     Ðiều 643. Người không được quyền hưởng di sản

     1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

     a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

     b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

     c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

     d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

     2. Những người quy định tại khoản 1 Ðiều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

    Ðiều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

    1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

     a) Không có di chúc;

     b) Di chúc không hợp pháp;

     c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

     d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

     2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

     a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

     b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

     c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

     Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật 

     1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

     a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

     b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

     c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

     2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

     3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

  • Xem thêm     

    28/03/2012, 09:38:48 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Hai nội dung bạn trích dẫn không có gì khác nhau:
    Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn như sau:

    Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) #ff0000;">Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) #ff0000;">Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề  nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

               Như vậy, nguyên tắc chia tài sản vợ chồng là chia đôi. Tuy nhiên quyền lợi của vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì sẽ được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Hai vợ chồng có một căn nhà nhưng không thể chia đôi bằng hiện vật thì sẽ chia cho vợ được sở hữu và có trách nhiệm thanh toán giá trị cho người chồng. Hoặc người vợ được nuôi con và nơi con học gần một trong hai căn nhà là tài sản chung vợ chồng thì sẽ chia cho vợ căn nhà gần nơi học của con...
              Việc bảo vệ quyền lợi của vợ, con như trên không phải là "đền bù" cho người vợ mà chỉ là sự "ưu đãi" đặc biệt của pháp luật đối với những người thuộc diện "ưu tiên" trong xã hội.
              Bạn có thể tham khảo thêm một số quy định sau đây của Luật hôn nhân và gia đình:

    Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa  thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa  thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa  thuận khác.

    Điều 93. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

    Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

    Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.


  • Xem thêm     

    28/03/2012, 01:49:09 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo quy định của BLTTDS thì hòa giải tại Tòa án trong vụ án ly hôn là bắt buộc. Bởi vậy bắt buộc vợ chồng bạn phải có mặt tại Tòa án để hòa giải thì vụ việc mới được giải quyết. Nếu Tòa án triệu tập  hợp lệ  đến lần thứ 2 mà vợ chồng bạn vẫn không có mặt thì coi như từ bỏ yêu cầu và tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án.
  • Xem thêm     

    28/03/2012, 10:59:22 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    ?
  • Xem thêm     

    28/03/2012, 09:21:12 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu thuận tình ly hôn, hai bên không có bất cứ tranh chấp gì và cùng muốn nhanh chóng thực hiện thủ tục thì phải đến Tòa án khoảng 4, 5 lần, thời gian khoảng 2, 3 tháng. Nếu có vấn đề phát sinh thì thời gian sẽ lâu hơn và số lần đến tòa án sẽ nhiều hơn...
  • Xem thêm     

    28/03/2012, 08:57:49 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Nếu đơn phương ly hôn thì phải nộp đơn ở tòa án nơi bị đơn cư trú. Nếu thuận tình ly hôn thì có thể nộp đơn ở tòa án một trong hai bên cư trú. Pháp luật không quy định về việc "đền bù" khi ly hôn. Về vấn đề cấp dưỡng, các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc nuôi con và cấp dưỡng. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ ấn định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập của cha mẹ và nhu cầu sinh hoạt trung bình của địa phương đối với con.
  • Xem thêm     

    27/03/2012, 08:52:00 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Nếu các đương sự có chứng cứ chứng minh 2 căn nhà đó đều là tài sản chung của ba ông bà thì lợi thế nghiêng về cha bạn. Còn nếu chỉ có căn cứ xác định ngôi nhà cha bạn đang sử dụng là tài sản chung của ông bạn và hai bà thì cha bạn phải chia lại 1/3 giá trị căn nhà đó cho bà hai. Gia đình bạn cần thu thập và cung cấp các chứng cứ về nguồn gốc hai khối bất động sản đó để Tòa án xem xét.
  • Xem thêm     

    27/03/2012, 02:02:03 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn
              Đơn thuận tình ly hôn có thể lập và ký tại nhà, sau đó nộp cho Tòa án cũng được, không bắt buộc phải ký tại Tòa án (một số Tòa án bắt buộc mua mẫu đơn xin ly hôn của Tòa thì tòa mới thụ lý).
    Nội dung đơn ly hôn cần trình bày rõ:
    - Họ tên vợ; CMND, hộ khẩu, chỗ ở hiện tại, nghề nghiệp;
    - Họ tên chồng; CMND, hộ khẩu, chỗ ở hiện tại, nghề nghiệp;
    - Ngày đăng ký kết hôn, nơi đăng ký kết hôn;
    - Thời gian chung sống hạnh phúc, địa điểm chung sống;
    - Lý do mâu thuẫn, chỗ ở hiện tại;
    - Con chung có không? Bao nhiêu tuổi, đang sống với ai?
    - Nguyện vọng nuôi con thế nào? Ai cấp dưỡng? Có yêu cầu Tòa án giải quyết về con không?
    - Tài sản chung có gì? Ở đâu? Ai đang quản lý? Trị giá? Thỏa thuận chia thế nào? Có yêu cầu Tòa án giải quyết không?
    - Hiện nay vợ chồng có khoản nợ chung nào không?...
                 Sau khi nhận đơn, Tòa án sẽ thông báo cho bạn nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi bạn nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án thì Tòa án sẽ ra thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự. Nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án sẽ ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
  • Xem thêm     

    27/03/2012, 01:50:15 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Điểm h, khoản 2, Điều 35 BLTTDS sửa đổi năm 2011 quy định: "Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn". Do vậy, nếu vợ chồng bạn thuận tình ly hôn thì có thể lựa chọn nơi cư trú của bạn hoặc nơi cư trú của chồng bạn để nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
  • Xem thêm     

    26/03/2012, 03:42:00 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Nếu bà vợ hai là vợ hợp pháp của ông bạn thì việc ông bà bạn sang tên căn nhà cho bố bạn mà không có sự đồng ý của bà vợ hai là không hợp pháp. Nếu gia đình bạn chứng minh được là tài sản của ông nội bạn với hai bà là 2 căn nhà thì có thể giải quyết theo hướng tài sản chung (ba người) đã chia, khi đó mới có thể bảo toàn được quyền sở hữu tài sản của cha bạn.
  • Xem thêm     

    25/03/2012, 03:58:09 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Bạn có thể liên hệ trực tiếp với luật sư để nêu yêu cầu cụ thể (tư vấn pháp luật để chị bạn tự thực hiện việc ly hôn; Soạn thảo  các đơn thư, văn bản, tự khai cho chị bạn; Xác minh thu thập, giao nộp chứng cứ; Hoặc Luật sư tham gia  vụ án với tư cách là Luật sư bảo vệ cho Nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; Hoặc luật sư tham gia vụ án với tư cách là người đại diện theo ủy quyền về tài sản, về việc giành quyền nuôi con.. hoặc tất cả các dịch vụ trên...) và thống nhất mức chi phí và thù lao luật sư. Mức thù lao của luật sư thường bao gồm công sức của luật sư và những chi phí phát sinh trong quá trình luật sư thực hiện công việc. Do vậy thù lao luật sư sẽ phụ thuộc vào mức độ tham gia, thời gian tham gia của luật sư trong vụ việc đó và kinh nghiệm, uy tín của Luật sư.
  • Xem thêm     

    25/03/2012, 03:27:19 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
  • Xem thêm     

    25/03/2012, 03:22:57 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    24/03/2012, 10:12:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
               1. Theo thông tin bạn nêu thì đất thổ cư đó là tài sản của bố mẹ chồng của chị bạn chứ không phải tài sản chung của vợ chồng chị bạn (chưa tặng cho, chưa sang tên) nên chị bạn sẽ không được chia QSD đất khi ly hôn;
               2. Căn nhà gạch 1 tầng mái ngói đó có thể gọi là Nhà cấp bốn. Giá trị căn nhà sẽ được hội đồng định giá thẩm định và định giá theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm;
               3. Con sẽ được chia cho ai có thể đảm bảo được quyền lợi tốt nhất về thể chất tinh thần và học hành của con. Con trên 9 tuổi phải có ý kiến của con. Nếu chị bạn không có chỗ ở thì có thể ở nhờ, thuê.. cũng là chỗ ở hợp pháp theo quy định của pháp luật (theo luật cư trú thì không cần phải sở hữu nhà thì mới coi là có chỗ ở hợp pháp);
               4.Căn nhà đó có thể được chia cho chồng chị bạn hoặc trả lại cho bố mẹ chồng chị bạn và bố mẹ chồng thanh toán cho vợ chồng chị đó giá trị của tài sản.
                Thực tiễn xét xử thì có những vụ án Tòa án chia ngôi nhà như thế cho chị vợ và yêu cầu chị vợ có tránh nhiệm thanh toán giá trị 1/2 ngôi nhà cho chồng và thanh toán giá trị QSD đất cho bố mẹ chồng. Còn xe máy là tài sản riêng của vợ chồng anh chị đó nên sẽ chia đôi chứ không chia cho bố mẹ chồng;
               5. Anh chị bạn có thể thống nhất với nhau về giá trị tài sản tranh chấp, nếu không thống nhất được giá trị tài sản thì sẽ yêu cầu Tòa án thành lập Hội đồng định giá để định giá theo pháp luật. Thông thường giá trị tài sản (Bất động sản) được Hội đồng định giá xem xét chỉ bằng khoảng 3,4 lần khung giá nhà nước quy định nhưng không bằng giá trị thực tế của tài sản trên thị trường. Nên ai được nhận nhà đất là hiện vật thì sẽ được lợi hơn người kia...
  • Xem thêm     

    24/03/2012, 09:31:18 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Vấn đề bạn hỏi là một vấn đề ít gặp nhưng khó xử lý. Thực tiễn mỗi nơi xử một khác, thậm chí có những tòa án chọn giải pháp là không thụ lý đơn hoặc trả lại đơn vì không biết xử lý thế nào về mặt tư cách tố tụng. Vấn đề này luật chưa có quy định rõ ràng nên cần phải có hướng dẫn của Tòa án tối cao để thống nhất đường hướng giải quyết vụ án. Theo ý kiến cá nhân tôi nên để con hoặc cha , mẹ của người mất năng lực hành vi dân sự đại diện cho họ tham gia tố tụng với tư cách là đại diện của nguyên đơn thì sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên.
            Bạn có thể tham khảo bài viết sau đây của Hoàng Yến đăng trên http://phapluattp.vn/2011042711553861p0c1063/ai-dai-dien-nguoi-tam-than-khi-ly-hon.htm :
            " Ai đại diện người tâm thần khi ly hôn?
    Khi giải quyết án ly hôn mà một bên đương sự là người bị bệnh tâm thần, nhiều tòa gặp lúng túng trong việc xác định người giám hộ cho người bệnh. Có chuyện này bởi luật pháp chưa có quy định điều chỉnh…

    Gần đây, chị NTV đã nộp đơn ra TAND TP.HCM xin ly hôn với người chồng đang mắc bệnh tâm thần. Trong đơn, chị V. trình bày rằng vợ chồng chị kết hôn từ năm 2005. Ba năm sau, trong một vụ tai nạn giao thông, chồng chị bị thương nặng ở đầu, từ đó mất ý thức, phải nhập viện điều trị tâm thần dài hạn. Hiện nay đời sống hôn nhân của chị là không thể duy trì nên chị muốn được ly hôn để ổn định lại cuộc sống sau này...

    Tự quyết định mọi thứ, có công bằng?

    Thụ lý, TAND TP đang băn khoăn về hướng giải quyết. Có ý kiến nói tòa nên yêu cầu chị V. tiến hành làm thủ tục tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự vì bị bệnh tâm thần. Khi yêu cầu này được tòa án có thẩm quyền chấp nhận, TAND TP sẽ tiến hành giải quyết vụ ly hôn của chị. Lúc này, chị V. vừa là nguyên đơn, đồng thời cũng vừa là người đại diện theo pháp luật cho bị đơn - chồng chị.

    Ý kiến này đã vấp phải sự phản đối bởi lẽ nếu làm như vậy, chị V. sẽ được tự ý quyết định tất tần tật mọi thứ, kể cả tài sản và con chung. Điều này không đảm bảo công bằng, có khả năng gây thiệt thòi cho người chồng đang bị tâm thần, vốn có quyền lợi đối lập với chị trong vụ ly hôn. Giả sử nếu mai này người chồng khỏi bệnh thì sao?

    Cần hướng dẫn hợp lý

    Theo luật, người mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình được xem là người mất năng lực hành vi dân sự (trên cơ sở phán quyết của tòa theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan). Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người giám hộ xác lập, thực hiện. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại tòa án cũng do người giám hộ thực hiện.

    Luật cũng quy định trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ và ngược lại. Như vậy, dựa vào các quy định này, chị V. sẽ làm thủ tục yêu cầu tòa tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, chị sẽ trở thành người giám hộ đương nhiên của chồng và sẽ tham gia vụ ly hôn với cả hai tư cách nguyên đơn và đại diện bị đơn.

    Tuy nhiên, ngoài việc không đảm bảo công bằng như đã nói, luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP.HCM) còn phân tích một điểm chưa ổn khác. Theo ông, ly hôn là một trong các quyền nhân thân. Với quyền nhân thân, đương sự phải tự mình thực hiện, không ai có thể thay thế. Tức không thể để vợ chồng làm người giám hộ cho nhau trong vụ ly hôn của chính họ.

    Một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM cũng nhìn nhận thực tế đang vướng mắc ở chỗ luật bắt buộc phải có người giám hộ cho người tâm thần khi tham gia vụ án ly hôn nhưng nếu để vợ chồng làm người giám hộ cho nhau thì không ổn. Mặt khác, tòa cũng không thể cử người khác làm người giám hộ bởi luật đã quy định rõ là tòa chỉ được làm việc này khi người bệnh chưa có người giám hộ đương nhiên.

    Đây là một chuyện khá nhức đầu với các tòa. Nếu linh động để vợ hay chồng làm người giám hộ cho nhau và tiến hành giải quyết ly hôn thì không chặt chẽ về mặt pháp luật. Nhưng nếu cứ “ngâm án” mãi cũng không được vì một người xin ly hôn với người bạn đời bị bệnh tâm thần để lo cho tương lai, xét cho cùng là chính đáng và yêu cầu này không hề bị pháp luật cấm đoán.

    Vì vậy, nhiều thẩm phán đã đề nghị TAND Tối cao có hướng dẫn chính thức là gặp trường hợp này thì xác định người giám hộ như thế nào để các tòa áp dụng thống nhất.

    #e6e6fa; margin: 5px; width: 400px; border-collapse: collapse;">

    #0000cd; font-family: arial;">Cha mẹ xin ly hôn thay con cũng không được

    Một vụ ly hôn khác cũng rắc rối không kém khi một bên đương sự là người bị tâm thần. Theo hồ sơ, vợ chồng chị G. lấy nhau được hơn 10 năm, có hai con chung. Trước thì người chồng hoàn toàn bình thường nhưng sau mấy năm đi làm xa về, chị thấy anh có dấu hiệu thần kinh không ổn định. Rồi chồng chị đổ bệnh, suốt ngày tưng tưng, nói năng lảm nhảm. Các bác sĩ kết luận chồng chị bị tâm thần nặng. Gia đình đưa anh đi chữa mãi nhưng bệnh không những không hết mà còn có phần nặng thêm.

    Thương chị G. còn trẻ, gia đình chồng đã vận động chị ly hôn để tìm hạnh phúc mới. Chị G. không chịu. Thấy con dâu khổ, không đành lòng, cha mẹ chồng chị đã làm đơn xin ly hôn giùm cho con trai. Đơn này sau đó đã bị tòa trả lại với lý do phải đích thân chồng hay vợ đứng đơn khởi kiện và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai thay mặt mình được.

    #0000cd; font-family: arial;">Cho cha mẹ làm người giám hộ

    Pháp luật dân sự cần sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng quy định về người giám hộ trong các vụ án ly hôn mà chồng hoặc vợ mất năng lực hành vi dân sự. Theo tôi, trong những trường hợp này nên quy định người giám hộ cho bên mất năng lực hành vi dân sự có thể là cha hoặc mẹ của họ.

    Luật sư TRẦN HẢI ĐỨC, Đoàn Luật sư TP.HCM

    #0000cd; font-family: arial;">Chú trọng đến tài sản chung

    Người bị bệnh tâm thần sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sau khi ly hôn. Vì vậy, cần có một số quy định áp dụng riêng cho việc phân chia tài sản chung sau ly hôn của họ. Mặt khác, trách nhiệm của người giám hộ trong việc phân chia tài sản chung của người bệnh cũng cần được bổ sung vào luật.

    Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

    #0000cd; font-family: arial;">Thiếu quy định riêng

    Trong luật pháp một số nước như Mỹ, Anh, Singapore…, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn người bị bệnh tâm thần nếu có đủ bằng chứng cho thấy khả năng nhận thức của người bệnh có thể được cải thiện trong một khoảng thời gian chấp nhận được. Chẳng hạn có xác nhận của bệnh viện là việc điều trị đang diễn tiến tốt đẹp… Còn ở ta, các quy định riêng về vấn đề này chưa có, kể cả trong luật lẫn các văn bản dưới luật.

    Một thẩm phán TAND TP.HCM

  • Xem thêm     

    24/03/2012, 08:40:38 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào ban!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
             1. Nếu cuộc hôn nhân "kép" đó chỉ được công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu phát sinh trước ngày 13/01/1960 (nếu ở Miền Bắc) hoặc trước ngày 25/3/1977 (nếu ở Miền Nam), đồng thời thuộc trường hợp quy định tại mục 3, Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 và Thông tư số 01/2001/TT-BTP:
              "Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;"

            "Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    - Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

    - Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

    - Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

    - Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

    Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình."

           Nếu bà vợ hai của ông bạn đủ điều kiện nêu trên (thời gian chung sống, hình thức chung sống) thì mới được coi là vợ hợp pháp của ông bạn và mới được chia 1/3 trong khối tài sản chung vợ chồng đó. Nếu cuộc hôn nhân của ông bạn với bà bạn không hợp pháp mà chỉ hợp pháp với bà hai thì tài sản của ông bạn chỉ chung với bà vợ hai.
           2. Điều 15, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Vợ chồng đều có quyền sở hữu, sử dụng và hưởng thụ ngang nhau về tài sản có trước và sau khi cưới" (tất cả tài sản của vợ chồng đều là tài sản chung, không có tài sản riêng). Do vậy, nhà đất đó sẽ không phải là tài sản riêng của ông bạn nếu hôn nhân của ông bạn với bà hai là hợp pháp và xác lập trước thời điểm 13/01/1960 hoặc 25/3/1977 như đã nêu ở trên.
  • Xem thêm     

    21/03/2012, 01:57:36 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Bạn cần xem lại bản án, quyết định ly hôn xem trong đó quy định thế nào (bạn có được mang con đi khỏi nơi ở của vợ không). Nếu bản án, quyết định ly hôn không quy định thì chỉ theo sự thỏa thuận của hai bên. Pháp luật chỉ quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn chứ không cụ thể về việc đón con đi mấy ngày!.. Nếu vợ bạn hạn chế quyền thăm nom con sau ly hôn thì bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án can thiệp để thực hiện nội dung bản án, quyết định ly hôn. Sau khi con bạn đủ 36 tháng tuổi thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con.
  • Xem thêm     

    20/03/2012, 09:17:20 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Vợ chồng bạn cần đến Phòng, Văn phòng công chứng để ký kết văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng. Sau khi ký kết văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng thì bạn nộp hồ sơ vào Văn phòng đăng ký QSD đất tại UBND huyện để được đăng ký theo quy định pháp luật: Hồ sơ gồm: Văn bản thỏa thuận có công chứng, Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu, Giấy chứng nhận, xác nhận tình trạng hôn nhân.
52 Trang «<36373839404142>»