Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

129 Trang «<14151617181920>»
  • Xem thêm     

    01/02/2015, 10:03:41 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Tòa án xét xử hai cấp, ngoài ra còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu bạn thấy tòa án xét xử chưa khách quan thì bạn có thể khiếu nại để tòa án cấp trên xét xử lại. Nếu bạn có chứng cứ về việc thẩm phán phụ trách vụ án đó không khách quan thì bạn cũng có thể làm đơn yêu cầu thay đổi thẩm phán đó.

    2. Nếu người nào biết về thông tin vụ án thì có thể được triệu tập tham gia với tư cách là người làm chứng. Việc có triệu tập hay không do tòa án quyết định. Nếu các chứng cứ, thông tin mâu thuẫn nhau thì tòa án có thể tổ chức đối chất để làm rõ hoặc căn cứ vào tình tiết, chứng cứ khác.

    3. Việc quyết định thắng thua trong vụ án đó phụ thuộc vào chứng cứ do các bên xuất trình và do tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu gia đình nào có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100 luật đất đai thì có cơ hội thắng kiện.

    Bạn có thể nêu nội dung vắn tắt và nêu câu hỏi cụ thể để được luật sư tư vấn thêm

  • Xem thêm     

    01/02/2015, 12:01:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu phần ngõ đi đó gia đình bạn đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại đất thổ cư thì gia đình bạn mới được phép xây dựng nhà ở.

    Nếu gia đình bạn không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 luật đất đai, cũng không có giấy chứng nhận thì gia đình bạn không đòi được diện tích đất đó.

  • Xem thêm     

    30/01/2015, 09:41:11 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

     

    Gia đình bạn có thể làm đơn yêu cầu UBND quận cấp GCN QSD đất và gửi kèm theo đơn xin rút đơn của ông chú đó. Nếu UBND quận vẫn không chấp nhận việc cấp GCN QSD đất cho gia đình bạn với lý do đất có tranh chấp (khi đã tự nguyện rút đơn) thì gia đình bạn có thể khởi kiện hoặc khiếu nại việc chậm cấp GCN QSD đất đó.

  • Xem thêm     

    29/01/2015, 11:22:41 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu bạn thể hiện giao dịch là đặt cọc chuyển nhượng thì bạn cỏ thể yêu cầu ký kết hợp đồng chuyển nhượng để sang tên khi họ không có khẳ năng trả nợ.

    Nếu giao dịch của bạn là thế chấp thì phải có công chứng và đăng ký thế chấp mới hợp pháp. Đến thời điểm trả nợ mà họ không trả được thì bạn sẽ xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận tại hợp đồng thế chấp. Nếu họ không tự nguyện xử lý tài sản theo hợp đồng thì bạn có thể khởi kiện tới tòa án dân sự.

  • Xem thêm     

    29/01/2015, 10:32:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Bạn tham khảo câu chuyện sau đây:  

     

    Với bản án 27 tháng tù giam dành cho bị cáo Nguyễn Duy Sơn, HĐXX sơ thẩm TAND TP Hải Dương đã bênh vực cho phía vi phạm pháp luật về trật tự xây dựng. Phán quyết sơ thẩm khiến số đông người tham dự phiên tòa ngày 25-3 thất vọng…

    Hồ sơ tài liệu trong vụ án, cũng như diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25-3 cho thấy rất rõ rằng: Ông Nguyễn Duy Sơn, trú tại Cầu Cốn, phường Trần Hưng Đạo, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương, là người có đầy đủ giấy tờ mua bán để quản lý sử dụng hợp pháp thửa đất số 120 và 121 tại khu 2 phường Nhị Châu, TP Hải Dương. Thời điểm ông Sơn mua đất vào năm 2011, chủ cũ đã xây tường bao theo sự cho phép bằng văn bản của UBND phường và bàn giao tường bao kèm đất cho ông. 
     
    Trong các năm 2011, 2012 và 2013, ông Sơn cũng đóng thuế đất đầy đủ. Bất ngờ, vào tháng 3-2012, ông Đinh Bá Vượng tự xưng được con trai là Đinh Bá Thuấn ủy quyền, tiến hành xây dựng nhà tôn trên thửa đất này. Theo kiến nghị của ông Nguyễn Duy Sơn, UBND phường Nhị Châu 2 lần lập biên bản yêu cầu dừng thi công, phá dỡ, nhưng phía ông Vượng không chấp hành mà tiếp tục hoàn thiện công trình vi phạm. Sự chậm chạp, thiếu quyết liệt của UBND phường đã gián tiếp tạo điều kiện cho phía ông Vượng ngang nhiên vi phạm.
     
    Để bảo vệ tài sản của mình, ngày 4-5-2012 ông Nguyễn Duy Sơn đã cho người dỡ mảng tường bao mà chính mình đã mua cùng với đất từ năm 2011. Việc tháo dỡ tường bao làm nghiêng nhà tôn (kèo nhà tôn gá vào tường bao) khiến bên vi phạm không thể tiếp tục hoàn thiện công trình.
     
    Chờ đợi sự công minh ở phiên phúc thẩm.  
    Chờ đợi sự công minh ở phiên phúc thẩm.    
     
    Sau thời điểm xảy ra sự việc trên khoảng nửa tháng, CA TP Hải Dương mới tiến hành lập biên bản, chụp ảnh hiện trường, trưng cầu giám định rồi quy cho ông Sơn tội danh “Hủy hoại tài sản”. Trớ trêu thay, đây là công trình vi phạm, buộc phải tháo dỡ, vậy mà cơ quan chức năng lấy cả chi phí về tiền công xây dựng, chi phí mua xi măng,… để kết tội ông Sơn “Hủy hoại tài sản”. Sự ngang trái này đã được luật sư Đặng Văn Cường (VPLS Chính Pháp) chỉ rõ tại phiên tòa: “Đây là tài sản bất hợp pháp, phải tháo dỡ nên không phải là quan hệ sở hữu mà pháp luật hình sự bảo vệ. Dù phía ông Vượng, phía UBND hay ông Sơn tháo dỡ thì thiệt hại tất nhiên phải xảy ra và phía vi phạm phải chịu, chưa kể họ còn phải mất cả chi phí cho việc tháo dỡ… Việc buộc tội ông Sơn chẳng khác nào công nhận nhà tôn đó là tài sản hợp pháp, đó là hành động bảo vệ, đứng về phía sai trái”. 
     
    Luật sư cũng chỉ rõ, bản ảnh do chính CA TP Hải Dương chụp tại hiện trường cho thấy nhà tôn chỉ nghiêng dựa vào đống gạch chứ không hề hư hại. Sự thiếu khách quan, thiếu tin cậy của “chứng cứ về thiệt hại” còn thể hiện ở chỗ, biên bản hiện trường, rồi thống kê về cái gọi là “tài sản thiệt hại” chỉ được tiến hành sau khoảng thời gian khá dài, mà công trình nghiêng này lại không được niêm phong, bảo vệ. Việc tài sản hư hỏng (nếu có) hoàn toàn có thể xảy ra sau sự kiện ngày 4-5-2012 bởi tác động của ai đó, chứ không phải từ phía ông Sơn; ông Sơn cũng không được tham gia thống kê số tài sản, vật liệu này;…
     
    Theo hồ sơ vụ việc, thì nguồn gốc đất là của ông Trần Thế Trường. Sau đất được chuyển nhượng, người đứng tên trên bản đồ địa chính là ông Trần Đình Thái (em rể ông Thuấn). Thế nhưng, vợ chồng ông Thái đã viết giấy nhượng đất này cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Thu Hà với giá 595 triệu đồng. Cuối năm 2011, ông Sơn mua lại thửa đất này từ vợ chồng bà Hà sau khi bà Hà đã xây tường bao. Vợ chồng ông Thái cũng có mặt tại phiên tòa ngày 25-3. Bà Thủy (vợ ông Thái) thừa nhận trước tòa việc vợ chồng bà đã bán đất cho bà Hà (còn nhờ ông Trần Thế Trường viết giấy bán trực tiếp), sau này muốn mua lại nhưng không được. Bà Hà cũng xác nhận tại phiên tòa việc bà mua đất này từ vợ chồng ông Thái, bà Thủy và bán đất kèm tường bao cho ông Sơn.
     
    Như vậy, có thể thấy ở đây phía ông Vượng đã có hành vi xây dựng công trình không phép trên đất mà ông Sơn đã mua hợp pháp. Đồng thời, những chứng cứ về việc ông Nguyễn Duy Sơn “hủy hoại tài sản” lại non yếu, thiếu tin cậy, không được xác lập theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định, tức là không chứng minh được về hậu quả.
    Quá trình thẩm vấn, tranh tụng tại tòa đã phơi bày sự thật, về vi phạm đáng phê phán nghiêm khắc của phía ông Vượng, đồng thời cho thấy hành động “tự” bảo vệ tài sản một cách có chừng mực của ông Nguyễn Duy Sơn. “Hành động của ông Sơn là để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình. Đây là một vụ hình sự hóa quan hệ dân sự”, luật sư Đặng Văn Cường phát biểu trước tòa.
     
    Dù sự việc đã được làm sáng tỏ, rất dễ hiểu với những người tham dự phiên tòa và cũng thấy rõ những lập luận buộc tội kiểu quy chụp, loanh quanh, khiên cưỡng của đại diện VKS trước phản bác của luật sư, nhưng HĐXX sơ thẩm vẫn ra phán quyết đầy bất ngờ: 27 tháng tù giam đối với bị cáo Nguyễn Duy Sơn. Đồng thời toà buộc ông Sơn phải bồi thường cho công trình vi phạm này...!
     
    Dư luận đành chờ sự công minh ở phiên tòa phúc thẩm.
     

    Có yếu tố giả mạo, lừa dối?

    Ở vụ án này, phía bị hại là ông Thuấn, ông Vượng không xuất trình được giấy tờ hợp pháp chứng minh họ có quyền lợi trên thửa đất này, ngoài một tờ “Giấy chuyển nhượng” photo có chữ ký tên “Trường” bán đất cho ông Thuấn. Tuy nhiên, ông Trần Thế Trường luôn khẳng định không hề ký giấy bán đất nào cho con ông Vượng.

    Thậm chí, trong Bản tường trình (ngày 19-8-2011) gửi UBND phường Nhị Châu, ông Trường còn khẳng định: Chữ ký ghi tên “Trường” trên “Giấy chuyển nhượng” của ông Vượng xuất trình là giả mạo, không phải là chữ ký của ông. Thời điểm ghi trên “Giấy chuyển nhượng”, ông không có ở địa phương (đang ở TP HCM thăm con gái). 

    http://dantri.com.vn/ban-doc/phan-quyet-tro-treu-cua-tand-tp-hai-duong-855295.htm

  • Xem thêm     

    29/01/2015, 10:29:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !

    Hành vi của bạn có thể bị xử lý hành chính về hành vi làm hư hỏng tài sản. Về lý thì tài sản được tạo lập hợp pháp thì pháp luật mới bảo vệ. Công trình xây dựng trái phép thì không phải là tài sản hợp pháp, pháp luật không bảo vệ những công trình xây dựng trái phép, ngược lại còn phải có trách nhiệm cưỡng chế tháo dỡ nếu chủ đầu tư không tự tháo dõ. 

    Tuy nhiên, thực tế nhiều địa phương không tính đến việc sở hữu tài sản có hợp pháp hay không. Cứ thấy ai đó phá hoại tài sản của người khác (dù tài sản đó có thể là công trình xây dựng trái phép) thì cũng sẽ xử lý vì không có chức năng tháo dỡ. Nếu tài sản bị hủy hoại trị giá từ hai triệu đồng trở lên thì sẽ xử lý hình sự theo lệ....!

  • Xem thêm     

    28/01/2015, 10:39:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu thửa đất mà gia đình bạn sử dụng có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100 hoặc thuộc trường hợp quy định tại Điều 101 Luật đất đai năm 2013 sau đây thì được cấp GCN QSD đất.:

    Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

    g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.". 

    Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn như sau;

    Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định

    1.Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).

    2.Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:

    a.Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

    b.Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;

    c.Quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;

    d.Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hòa giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất;

    đ.Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;

    .Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký;

    g.Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;

    h.Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;

    i.Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;

    k.Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

    3.Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

    4.Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.".

    2. Nếu trường hợp của gia đình bạn đủ điều kiện như trên thì có thể liên hệ với UBND xã để kê khai. Loại đất được cấp căn cứ vào giấy tờ về quyền sử dụng đất. Nếu trong giấy tờ ghi là đất ao thì thuộc nhóm đất nông nghiệp, muốn chuyển mục đích sử dụng đất thì phải nộp tiền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    28/01/2015, 11:54:33 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu diện tích tách thửa đất và diện tích đất còn lại sau khi tách thửa đảm bảo theo quy định về diện tích tối thiểu quy định của địa phương thì bạn có thể làm thủ tục tách thửa đất theo quy định.

    Nếu thửa đất đó ở Hà Nội thì phải đảm bảo mặt tiền 3 m, diện tích tối thiểu là 30 m2 thì mới có thể thực hiện thủ tục tách thửa theo quy định.

  • Xem thêm     

    28/01/2015, 11:49:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định pháp luật thì việc chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực và phải được đăng ký thì mới có giá trị pháp lý. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu lực pháp luật của hợp đồng đó thì: Bên chuyển nhượng phải có quyền chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng phải đủ điều kiện nhận chuyển nhượng; đối tượng phải được phép chuyển nhượng; nội dung chuyển nhượng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; thủ tục phải công chứng và phải đăng ký thì mới hợp pháp.

    Tuy nhiên, do hạn chế lịch sử nên nhiều người dân đã không thực hiện thủ tục theo quy định pháp luật. Những văn bản pháp luật sau này có hướng dẫn, thừa nhận sự tồn tại thực tế đó. Nếu giao dịch đã thực tế diễn ra, chỉ không tuân thủ về mặt hình thức thì vẫn có thể được chấp nhận. Bạn có thể tham khảo quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003, Điều 100, Điều 101 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để biết thêm quy định về trường hợp của gia đình bạn.

    2. Nếu ông Lý và ông Tuấn có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 thể hiện ông Tuấn là đồng sở hữu thửa đất đó và ông Tuấn chưa chuyển nhượng cho gia đình bạn thì ông Tuấn có quyền đòi lại thửa đất đó.

    3. Thẩm quyền giải quyết: Vụ việc của gia đình bạn là tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nên thẩm quyền của UBND xã chỉ là hòa giải chứ không có quyền quyết định, không có thẩm quyền giải quyết. Nếu hòa giải không thành thì một trong các bên có quyền gửi đơn tới Chủ tịch UBND huyện hoặc Tòa án để được xem xét giải quyết.

    Bạn tham khảo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP như sau:

    "2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:

    a) Trường hợp nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    a.1. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì buộc họ phải trả cho bên chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    a.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    b) Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    b.1. Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng.

    b.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    c) Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận chuyển nhượng nhưng chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    d) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này.

    đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)

    Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:

    a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

    b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

    b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;

    b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.

    2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

    c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

    c.3. Xác định thiệt hại.

    - Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

    Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

    - Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

    Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    - Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử."

  • Xem thêm     

    27/01/2015, 11:51:12 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Với sự việc như vậy thì gia đình bạn cần kiểm tra lại các giấy từ mà mẹ bạn đã ký khi cho mượn sổ đỏ có nội dung thế nào ? Có phải là ủy quyền định đoạt hay ký trực tiếp vào hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng không ? Khi có được thông tin về giấy tờ đó thì tìm các căn cứ pháp lý để có thể hủy bỏ, chấm dứt giao dịch đó.

    2. Gia đình bạn có thể liên hệ với phòng TNMT xem nhà đất của mẹ bạn còn do mẹ bạn đứng tên không, có tham gia giao dịch nào không, nội dung giao dịch là gì, từ đó tìm cách để hủy bỏ hoặc chấm dứt giao dịch đó thì mới bảo toàn được giá trị nhà đất.

  • Xem thêm     

    27/01/2015, 11:24:46 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của luật khiếu nại tố cáo và các văn bản có liên quan thì người khiếu nại có quyền làm đơn khiếu nại gửi cho người có thẩm quyền giải quyết theo luật khiếu nại. Kèm theo đơn khiếu nại là các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho việc khiếu nại của mình là có căn cứ và đúng pháp luật. Khi đơn khiếu nại đúng nội dung, đúng thủ tục, đúng thẩm quyền, có chứng cứ kèm theo đầy đủ thì người giải quyết khiếu nại sẽ thụ lý và sớm có kết quả giải quyết.

  • Xem thêm     

    25/01/2015, 11:34:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Gia đình bạn không thể tự làm sổ đỏ hoặc tự tách thửa nếu không nhận GCN QSD đất của chủ cũ. Sau khi có GCN QSD đất mang tên chủ cũ thì gia đình bạn có thể liên hệ với chủ đất cũ để thực hiện thủ tục tách thửa đất theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    24/01/2015, 09:34:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì hiện nay đang có giấy tờ viết tay năm 1981 thể hiện ông nội bạn là người mua thửa đất đó, nay mẹ bạn được cấp GCN QSD đất đứng tên mẹ bạn do khai hoang. Tuy nhiên thực tế là đất mua chứ không phải đất khai hoang. Hơn nữa, đất đai là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, có hệ thống cơ quan quản lý đất đai từ trung ương tới địa phương. Vì vậy, việc ghi nguồn gốc đất là khai hoang để cấp sổ đỏ cho mẹ bạn là không hợp lý, Sổ đó đó sẽ bị thu hồi hoặc điều chỉnh khi có tranh chấp xảy ra.

    2. Nếu mẹ bạn không có chứng cứ về việc đã đưa tiền nhờ ông bạn mua đất hoặc không có giấy tờ chuyển nhượng, tặng cho từ ông bạn sang cho mẹ bạn thì mẹ bạn sẽ thua kiện. Nếu ông bạn qua đời thì những người thừa kế của ông bạn sẽ có quyền khởi kiện để tranh chấp thừa kế hoặc đòi quyền sử dụng thửa đất đó.

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 08:23:41 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định của luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành thì UBND cấp phường có thẩm quyền xác nhận về nguồn gốc đất, tình trạng nhà đất. Vì vậy, khi có yêu cầu của công dân thì phường có trách nhiệm xác nhận những thông tin đó.

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 05:58:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy đinhj của luật đất đai 2013, nếu đất dự án không triển khai trong thời hạn 3 năm thì bị dỡ bỏ. Từ khi có thông báo về việc thu hồi đất mà trong thời hạn 3 năm không ra quyết định thu hồi đất thì người dân được thực hiện các quyền của người sử dụng đất.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của luật đất đai:

    "Điều 49. Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

    1. Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia.

    Thủ tướng Chính phủ phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trên cơ sở các chỉ tiêu sử dụng đất cấp quốc gia đã được Quốc hội quyết định.

    Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.

    Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn cấp xã.

    Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh.

    2. Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.

    3. Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 03 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

    Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại khoản 2 Điều này.

    4. Khi kết thúc kỳ quy hoạch sử dụng đất mà các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất chưa thực hiện hết thì vẫn được tiếp tục thực hiện đến khi quy hoạch sử dụng đất kỳ tiếp theo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt.

    5. Chính phủ quy định chi tiết việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. "

     

    "Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

    1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất.

    2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.

    3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. "

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 05:44:41 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì chưa có căn cứ nào xác định việc cơ quan có thẩm quyền cấp GCN QSD đất cho bà B là trái quy định pháp luật. Theo thông tin bạn nêu thì bà B được cấp GCN QSD đất cả phần diện tích đất mà gia đình ông A đang sử dụng. Tuy nhiên, nếu bà B có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003, thủ tục cấp GCN QSD đất được thực hiện đúng quy định thì việc cấp CGNQ SD đất đó là hợp pháp.

    Nếu bà B không có bất cứ giấy tờ nào về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5, Điều 50 Luật đất đai, không đủ điều kiện xác định là sử dụng đất ổn định theo quy định tại khoản 4, Điều 50 luật đất đai 2003, hoặc thủ tục cấp GCN QSD đất không đo đạc, kiểm tra thực hiện thủ tục niêm yết công khai... thì việc cấp GCNQ SD đất đó không đúng quy định pháp luật. Bạn có thể cung cấp thông tin cụ thể hơn để luật sư tư vấn cho bạn.

    2. Vụ việc có thể được giải quyết theo hai thủ tục:

    - Thủ tục hành chính, khiếu nại. Với thủ tục này thì UBND cấp huyện có thể ra quyết định thu hồi GCN QSD đất đã cấp và hủy bỏ quyết định cấp GCN QSD đất nếu có căn cứ cho rằng việc cấp GCN QSD đất đó là đúng pháp luật. Với GCN QSD đất của bà B không còn nên không cần hủy bỏ, thu hồi mà có thể thu hồi hoặc điều chính GCN của ông D.

    - Thủ tục tố tụng: Tòa án có thể xác định tính hợp pháp việc xử dụng đất đó thông qua một vụ án dân sự hoặc giải quyết các quyết định của UBND về cấp GCN QSD đất theo thủ tục tố tụng hành chính.

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 03:12:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Vụ việc của gia đình bạn là quan hệ dân sự, nếu có tranh chấp thì được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong quan hệ dân sự cũng có thể có gian dối. Hành vi gian dối trong quan hệ dân sự làm có thể làm cho giao dịch đó vô hiệu. Nếu cố tình không thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu không thực hiện hợp đồng khiến hợp đồng vô hiệu thì phải bồi thường thiệt hại. Hành vi không thực hiện thủ tục đăng ký sang tên là vi phạm hợp đồng dân sự, dẫn đến tranh chấp hợp đồng thì tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Còn trong quan hệ dân sự mà gian dối đến mức nguy hiểm cho xã hội, thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới thành tội phạm.

    Nếu gia đình đó nhận tiền của gia đình bạn nhưng không bàn giao đất cho gia đình bạn để sử dụng, không đăng ký sang tên, đồng thời lại gian dối để lấy lại sổ đỏ mang đi cầm cố thì mới có dấu hiệu tội phạm.

    2. Bạn có thể khởi kiện tới tòa án để buộc gia đình đó phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đăng ký, sang tên cho gia đình bạn.

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 11:20:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì thủ tục của bạn là chuyển quyền sử dụng đất từ (tặng cho, chuyển nhượng...). Điều kiện chuyển nhượng được quy định tại Điều 188 Luật đất đai năm 2013 như sau:

    "Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

    1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất.

    2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.

    3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.".

    Điều luật này được hướng dẫn cụ thể tại Điều 61, Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 của thành phố Hà Nội.

     

    2. Nếu thửa đất đủ điều kiện chuyển quyền sử dụng đất thì bạn có thể liên hệ với phòng/văn phòng công chứng để làm thủ ký kết hợp đồng và nộp thuế thu nhập cá nhân là 2% giá trị tài sản và lệ phí trước bạ là 0,5% giá trị tài sản.

     Trường hợp không phải nộp lệ phí trước bạ:

    - Nhà đất đã được cấp GCN chung cho hộ gia đình, khi phân chia nhà đất cho những người trong hộ gia đình.

    - Chuyển giao tài sản cho vợ, chồng, con cái, cha mẹ

    - Nhà đất được đền bù, kể cả nhà đất được mua bằng tiền đền bù.

    ** Trường hợp không phải nộp thuế thu nhâp cá nhân:

    - Chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.

    - Chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.

    - Nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.

  • Xem thêm     

    21/01/2015, 10:35:11 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu địa phương đưa ra lý do thì phải có chứng cứ và căn cứ pháp lý, bạn có thể yêu cầu trả lời bằng văn bản và bạn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện văn bản đó. Nếu địa phương có văn bản trả lời là khu đất đó không thuộc khu vực quản lý của địa phương thì bạn xây dựng không có giấy phép thì địa phương cũng không có quyền xử lý vi phạm.

  • Xem thêm     

    20/01/2015, 10:41:01 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Kinh phí giải phóng mặt bằng lấy từ dự án đó, việc đo đạc, kiểm đếm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo quy định pháp luật. Bạn tham khảo quy định của luật đất đai năm 2013 sau đây:

    "Điều 69. Trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

    1. Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm được quy định như sau:

    a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành thông báo thu hồi đất.

    Thông báo thu hồi đất được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;

    b) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;

    c) Người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;

    d) Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện.

    Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử dụng đất vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Người có đất thu hồi có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người có đất thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định tại Điều 70 của Luật này.

    2. Lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:

    a) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.

    Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi.

    Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền;

    b) Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.

    3. Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:

    a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày;

    b) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;

    c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt;

    d) Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện.

    Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của Luật này.

    4. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm quản lý đất đã được giải phóng mặt bằng.

    Điều 70. Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc

    1. Nguyên tắc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc:

    a) Việc cưỡng chế phải tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, bảo đảm trật tự, an toàn, đúng quy định của pháp luật;

    b) Thời điểm bắt đầu tiến hành cưỡng chế được thực hiện trong giờ hành chính.

    2. Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định kiểm đếm bắt buộc sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;

    b) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, tại địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;

    c) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc đã có hiệu lực thi hành;

    d) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành.

    Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản.

    3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.

    4. Trình tự, thủ tục thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc được quy định như sau:

    a) Tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế;

    b) Trường hợp người bị cưỡng chế chấp hành quyết định cưỡng chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành và thực hiện điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.

    Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định cưỡng chế.".

129 Trang «<14151617181920>»