Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    09/09/2011, 01:12:02 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:
     Bạn đang nhầm lẫn giữa "tiền sử dụng đất" với tiền "thuế sử dụng đất hàng năm". Tiền sử dụng đất là khoản tiền mà khi người sử dụng đất được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất (được cấp giấy chứng nhận) phải nộp cho nhà nước trừ trường hợp được "miễn" như gia đình bạn. Còn thuế sử dụng đất hàng năm thì gia đình bạn phải nộp (trừ trường hợp gia đình bạn thuộc hộ nghèo hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật). Do vậy việc cán bộ chi cục thuế yêu cầu gia đình bạn nộp thuế sử dụng đất hàng năm là đúng pháp luật. Bạn có thể tham khảo các quy định của Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1994 để hiểu rõ thêm (Các văn bản trên sẽ được thay thế bởi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 có hiệu lực ngày 01/01/2012).
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    09/09/2011, 12:57:22 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:
    1. Số tiền mà bạn được nhận là số tiền được ghi trong bản án đã có hiệu lực pháp luật, bất kể sau đó ngôi nhà có tăng hay giảm giá trị (Có quan thi hành án chỉ có nghĩa vụ thi hành những phán quyết của Tòa án chứ không được phép làm khác nếu đương sự không có thỏa thuận).
    2. Thông thường Bản án sẽ ghi là: "Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án chưa thi hành án thì phải chịu lãi suất trên số tiền chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.". Như vậy, lãi suất của bạn sẽ tính từ ngày bạn có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi bạn nhận được tài sản theo bản án. Mức lãi suất được xác định là lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án (Hướng dẫn của TAND TC).
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    09/09/2011, 12:42:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn Luật sư Đặng Văn Cường trả lời như sau:

    Khoản 2, Điều 21 nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định: "Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn; thửa đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng 20% – 50% giá đất ở trung bình của khu vực có đất thu hồi theo quy định trong Bảng giá đất của địa phương; diện tích được hỗ trợ không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương.".

    Bạn lưu ý là "không quá 5 lần" chứ không phải là "bằng 5 lần" . Tỷ lệ thực tế sẽ phụ thuộc vào quỹ đất của từng địa phương và do UBND tỉnh quy định (khoản 3, Điều 21).

    Nếu UBND tỉnh đã quy định là tỷ lệ bồi thường "bằng 5 lần" thì hạn mức thì sẽ căn cứ vào quy định đó của UBND tỉnh để hỗ trợ khi thu hồi đất.

    Thân ái!

     
  • Xem thêm     

    09/09/2011, 12:27:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời bạn như sau:
    Đất giãn dân là loại đất ở nên theo quy định của pháp luật thủ tục phải thực hiện tại Phòng công chứng và UBND cấp huyện. Các giấy tờ bạn lập tại UBND nhân dân phường vào thời điểm tháng 4/2011 là không có giá trị pháp lý. Bạn cần mang Giấy chứng nhận QSDĐ, CMND hộ khẩu của hai bên và giấy Xác nhận tình trạng hôn nhân của bên bán đến phòng công chứng để lập và ký hợp đồng chuyển nhượng, sau đó nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký Đất và nhà thuộc UBND quận để sang tên.
    Chúc thành công!
  • Xem thêm     

    09/09/2011, 12:17:20 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! Theo thông tin mà bạn đưa ra, tôi xin trả lời như sau:

    1.                        Ông bà nội bạn đã mất từ năm 1980, đến nay đã hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế nên bố bạn không thể yêu cầu chia thừa kế đối với nhà đất của ông bà nội bạn. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì ai quản lý tiếp tục quản lý cho đến khi nhà nước có những quy định mới về vấn đề này.

    2.                        Theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì: Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản. Trường hợp của gia đình bạn cũng không thể áp dụng quy định này được (kiện đòi tài sản và chia tài sản chung) bởi điều kiện là phải tất cả các đồng sở hữu có yêu cầu thì Tòa án mới giải quyết gia đình cô ba chắc chắn không đồng ý). Hơn nữa anh Nam cũng là thừa kế của cô ba chứ “không phải là “người khác chiếm hữu”.

    3.                        Tuy nhiên, nếu không có di chúc của ông bà nội bạn cho anh Nam mà anh Nam tự ý đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì nhiều khả năng Giấy đó cấp không đúng quy định pháp luật (hết thời hiệu thừa kế thì người đang quản lý tiếp tục quản lý chứ không phải QSD đất thuộc về họ). Bởi vậy, bạn có thể yêu cầu Thanh tra TN&MT kiểm tra lại vấn đề cấp GCN và định đoạt của anh Nam.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    09/09/2011, 11:22:34 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của bạn! Tôi xin trả lời bạn như sau:

    1.            Điều 106 Luật đất đai 2003 và khoản 3 điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai (được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định 17/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/01/2006), quy định: “Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất như sau: Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất chuyên trồng lúa nước”. Do vậy, nếu bạn không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không được nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa nước. “Khoản nhỏ” mà cán bộ địa chính nói là rất mập mờ, khó hiểu. Nếu bạn không đủ điều kiện nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa nước (có hộ khẩu ở địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp) theo quy định pháp luật thì dù có “khoản lớn” thì bạn cũng không thể đứng tên hợp pháp.

    2.            Bạn có thể nhờ bác của bạn đứng tên cũng được nhưng bạn cần lập một biên bản thỏa thuận giữa bạn và bác bạn với nội dung nhờ đứng tên trên giấy chứng nhận. Bạn cần giữ cẩn thận Biên bản phân chia đất của gia đình bạn và biên bản thỏa thuận nhờ bác đứng tên để đảm bảo quyền lợi của bạn nếu tranh chấp xảy ra.

    3.            Bạn cũng cần lưu ý là pháp luật quy định QSD đất nông nghiệp là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của hộ gia đình. Nếu một người chết thì phần của họ thành di sản thừa kế. Thành viên của hộ gia đình có quyền thỏa thuận phân  chia quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp.

    4.            Hộ khẩu không phải là giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà đất (chỉ là giấy tờ ghi nhận nơi cư trú). Bạn cần xem lại xem nguồn gốc nhà đất mà nội bạn đang ở là do cha ông lâu đời để lại, nội bạn mua hay nhà nước chia đất cho hộ gia đình? Để xác định bố bạn có phần quyền tài sản đối với nhà đất đó không (nếu có thì có thể yêu cầu chia thừa kế của bố bạn)? Ông nội (hoặc bà nội bạn) còn sống không? Nếu một người đã chết thì đã quá 10 năm chưa (để yêu cầu chia thừa kế nhà đất vì bố bạn sẽ có phần trong đó)…

    5.            Nếu mẹ con bạn có chứng cứ chứng minh được là đã bỏ tiền ra tu sửa, nâng cấp ngôi nhà thì phần tài sản đó thuộc về mẹ con bạn. Số tiền mà mẹ bạn bỏ ra để chi tiêu gia đình thì không được quyền đòi lại vì đó là nghĩa vụ nuôi dưỡng của mẹ bạn đối với nội và anh chị em bạn. Tuy nhiên nếu có tranh chấp đến nhà đất thì công sức duy trì tu tạo tài sản của mẹ bạn cũng có thể được Tòa án xem xét.

    Chúc bạn may mắn. Nếu có bất cứ vấn đề gì liên quan pháp sinh hãy liên hệ với tôi để tư vấn miễn phí.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    09/09/2011, 08:50:44 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo thông tin mà bạn đưa ra, tôi xin trả lời như sau:

    1.                      Việc mẹ bạn “bắt ký tên là ngôi nhà chỉ do một mình mẹ đứng tên” chính là thủ tục khai nhận và phân chia đối với phần di sản thừa kế của bố bạn (1/2) căn nhà. Đến nay mọi thủ tục đã hoàn tất, mẹ bạn trở thành chủ sở hữu duy nhất đối với nhà đất trên, đồng thời các anh chị em bạn không còn quyền gì đối với nhà đất đó nữa.

    2.                      Trong trường hợp nếu các bạn có công sức đóng góp xây dựng, tu sửa ngôi nhà thì có quyền đối với phần xây dựng, tu sửa đó.

    3.                      Nếu mẹ bạn kết hôn lần 2 thì tài sản đó vẫn là tài sản riêng của mẹ bạn trừ khi mẹ bạn đồng ý nhập vào thành tài sản chung với người chồng thứ hai. Khi nào mẹ bạn qua đời mà không lập di chúc hoặc lập di chúc định đoạt cho anh em bạn thì anh em bạn mới được quyền hưởng thừa kế của mẹ bạn đối với nhà đất đó.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    08/09/2011, 02:57:20 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
     Nghị quyết 35/2000/NQ-QH hướng dẫn luật hôn nhân và gia đình quy định:

    a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

     b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

    Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;

    c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.".

    Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình quy định: " Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật

    1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.

    2. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.

    3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.".

     Như vậy theo các quy định pháp luật trên thì tài sản riêng của ai thuộc về người đó. Tài sản chung sẽ được chia theo công sức đóng góp và ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.

    Thân ái!

     


  • Xem thêm     

    08/09/2011, 01:06:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:
    1. Nếu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho cá nhân mẹ bạn thì có thể một mình mẹ bạn ký hợp đồng là cũng hợp pháp. Tuy nhiên nếu cấp cho hộ gia đình thì tất cả những người có tên trong hộ khẩu thời điểm cấp giấy ký hợp đồng thì mới hợp pháp.
    2. Nếu ngôi nhà đó chưa được cấp giấy chứng nhận đồng thời bạn cũng không chứng minh được việc bỏ tiền ra xây nhà thì khó có căn cứ để bạn đòi lại giá trị ngôi nhà. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp đến quyền sở hữu ngôi nhà trên, tại Tòa án bạn chứng minh được việc bạn bỏ tiền ra xây nhà thì bạn có thể được sở hữu nhà và sử dụng một phần đất nhưng phải thanh toán giá trị QSD đất cho mẹ bạn.
    3. Nếu mẹ bạn bán cả nhà và đất thì bạn có thể yêu cầu toa án giải quyết. Nhưng theo tôi tốt nhất là mẹ con nên thỏa thuận hòa giải, không nên để sự việc diễn biến theo chiều hướng xấu.
    Chúc thành công!
  • Xem thêm     

    08/09/2011, 12:53:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của bạn! Câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:
    1. Trong trường hợp này bạn buộc phải đợi kết quả giải quyết của Tòa án nêu như không thỏa thuận được với hàng xóm.
    2. Theo thông tin mà bạn đưa ra thì nhiều khả năng gia đình bạn sẽ thắng kiện. Tuy nhiên bạn cũng cần lưu ý là mặc dù diện tích đất nhà bạn đúng theo giấy chứng nhận nhưng cũng có thể tịnh tiến sang phần đất hàng xóm (A lấn sang B, B lấn sang C) do vậy cần kiểm tra lại tất cả các thửa đất giáp ranh.
    3. Tòa án đã hòa giải nhiều lần không có kết quả thì bạn có thể đề nghị Tòa án không hòa giải nữa và đưa vụ án ra xét xử để nhanh chóng kết thúc vụ án.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    08/09/2011, 12:42:10 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Câu hỏi của bạn Luật sư Đặng Văn Cường trả lời như sau:

    1.      Bạn cần đến UBND cấp xã phường để tìm hiểu xem theo bản đồ và sổ địa chính (hoặc sổ mục kê, sổ dã ngoại) gần đây nhất (khoảng năm 1992 hoặc 1994) thể hiện thửa đất trên là loại đất gì? Nếu vẫn là đất nông nghiệp trồng lúa nước thì thửa đất đó có thể sẽ bị Nhà nước thu hồi theo quy định tại Điều 38 Luật đất đai (Đất sử dụng sai mục đích). Còn nếu bạn vẫn quyết tâm mua (không ngại rủi ro) thì người đứng tên mua phải có hộ khẩu tại địa phương và phải trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì mới được quyền đứng tên trên Giấy chứng nhận. Trước đó, thửa đất phải được cấp giấy cho chủ cũ thì mới thực hiện thủ tục chuyển nhượng được.

    2.      Qua kiểm tra hồ sơ địa chính nếu bạn thấy thửa đất đó tuy có nguồn gốc là đất nông nghiệp nhưng nay hồ sơ thể hiện là đất ở và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất là đất ở, chủ đất đã sử dụng đất ổn định, liên tục, không tranh chấp từ trước ngày 15/10/1993 (Trường hợp quy định tại Điều 50 Luật đất đai) thì đủ điều kiện để nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là đất ở. Trong trường hợp này gia đình bạn có thể mua nhà đất nhưng nhớ cam kết về trách nhiệm hợp tác, cung cấp giấy tờ để xin cấp giấy chứng nhận cho bên bán và bên bán có trách nhiệm ký hợp đồng chuyển nhượng để sang tên cho gia đình bạn. Theo kinh nghiệm của tôi thì nên để hợp đồng ở dạng đặt cọc (số tiền cọc bằng số tiền chuyển nhượng), yêu cầu họ giao luôn nhà đất cho mình sử dụng và yêu cầu họ phải ủy quyền cho bên thứ ba do mình chỉ định để xin cấp giấy chứng nhận và sang tên cho mình.

    Nếu cần tư vấn miễn phí, hãy liên hệ với tôi. Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    08/09/2011, 12:35:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:
    1. Bạn cần tìm hiểu xem thửa đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận cho gia đình bà Trầm chưa? Nếu thửa đất đã có Giấy chứng nhận trước năm 2002, việc chuyển nhượng có sự nhất trí của tất cả các thành viên trong gia đình bà Trầm; gia đình bạn cùng cư trú trên địa bàn đó và cùng sản xuất nông nghiệp, sau khi ký hợp đồng gia đình bạn đã thanh tóan đầy đủ tiền, đã nhận đất sử dụng và đóng thuế cho Nhà nước thì mặc du hợp đồng chưa được UBND xã chứng thực và chưa được đăng ký sang tên thì Tòa án vẫn có thể công nhận hợp đồng đó của các bên là hợp pháp.
    2. Nếu gia đình bạn không có hộ khẩu ở địa phương, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hoặc chưa thanh toán tiền, hoặc thửa đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận thì Hợp đồng đó vô hiệu cả về nội dung và hình thức. Nếu thửa đất đó có tên chủ sử dụng trên sổ địa chính hoặc sổ đăng ký ruộng đất thì thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án. Nếu không có tên trên hai loại sổ trên thì thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND cấp huyện.
    Bạn nên kiểm tra lại các thông tin trên! Nếu cần tư vấn miễn phí hãy liên hệ trực tiếp với tôi!
    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    08/09/2011, 12:24:16 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo thông tin mà bạn nêu ra thì bạn hòan tòan có quyền nhận sự giúp đỡ của anh Dũng bởi việc giúp đỡ đó là tự nguyện và không trái pháp luật. Theo quy định pháp luật thì đó là việc tặng cho tài sản. Tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên tặng cho, việc tặng cho là hoàn toàn tự nguyện thì bạn cứ yên tâm mà nhận và cảm ơn người ta!
    Chúc bạn may mắn
  • Xem thêm     

    08/09/2011, 11:28:16 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn tôi trả lời như sau:
    1.Ðiều 677 Bộ luật dân sự quy định: "Thừa kế thế vị

    Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống." Như vậy, Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật trên để cho ba anh em bạn được hưởng thừa kế thế vị của bố bạn đối với di sản thừa kế của ông bạn là đúng pháp luật. Do vậy, phần nhà đất được chia theo bản án cho ba anh em bạn là tài sản thuộc quyền sở hữu chung theo phần có thể phân chia của 3 anh em bạn.

    2. Việc UBND cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận  cho cá nhân anh trai bạn đối với toàn bộ diện tích đất được chia trong khi không có sự nhất trí của hai anh em còn lại là không đúng pháp luật. Đồng thời, việc anh trai bạn tự ý chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên cho người khác khi không được nhất trí của ba anh em bạn cũng là trái pháp luật.

    3. Bạn có thể kiến nghị với UBND, nơi cấp giấy chứng nhận xem xét để đính chính hoặc hủy giấy chứng nhận trên đồng thời yêu cầu đừng việc đăng ký, sang tên cho người nhận chuyển nhượng đất của anh trai bạn.

    Bạn cũng có thể giải quyết vụ việc thông qua Tòa án bằng một vụ án tranh chấp tài sản chung. Tuy nhiên trước khi tòa án thụ lý, bạn cần phải yêu cầu UBND cấp xã nơi có đất tổ chức hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai.

    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    07/09/2011, 04:44:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:

    1. Theo khoản 2, Điều 202. Bộ luật hình sự quy định như sau phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    Nghị quyết 02/2003 ngày 17/4/2003 của HĐTP TANDTC quy định:

    Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    a. Làm chết hai người;

    b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

    4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    a. Làm chết ba người trở lên;

    b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

    e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên".
    Vậy bạn nên đối chiếu các quy định pháp luật trên xem trường hợp của bạn có thuộc khoản 2 không.
    2. Bạn chỉ được hưởng án treo nếu hình phạt từ 3 năm trở xuống và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    07/09/2011, 04:35:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Trong trường hợp này cần phải giám định mới biết được chữ ký có phải của người bán hay không. Nghị định 75/2000/NĐ-CP quy định về công chứng chứng thực thì các bên phải ký trước mặt người công chứng chứng thực. Do vậy, nếu UBND xã chứng thực không đúng chữ ký của người bán thì UBND xã phải chịu trách nhiệm. Nếu hợp đồng vô hiệu gây thiệt hại cho bạn thì bạn có thể khởi kiện theo Luật bồi thường nhà nước.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    07/09/2011, 01:28:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi rất thông cảm và xin chia xẻ với hoàn cảnh của bạn! Tình huống của bạn tôi xin tư vấn như sau:
    1. Người vay tiền đã bị công an bắt do vậy bạn cần làm đơn tố giác gửi đến công an trình bày rõ sự việc và yêu cầu lấy lại số tiền trên. Trong vụ việc này vụ án sẽ bao gồm cả yếu tố hình sự và dân sự (đòi tiền).
    2. Bạn cần tìm hiểu các thông tin về tài sản của bị cáo và báo cho công an để phục vụ công tác điều tra. Bạn đề nghị Công an ra lệnh kê biên đối với cá tài sản đó để tránh tẩu tán tài sản. Các tài sản của bị cáo sẽ bị xử lý để trả lại số tiền cho bạn.
    3. Theo quy định của BLTTHS thì bạn có quyền được biết kết quả điều tra, được quyền tham gia phiên tòa, được quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình, quyền kháng cáo... Hi vọng là bạn sớm lấy lại được số tiền trên
     Chúc bạn may mắn!
    Luật sư Đặng Văn Cường
  • Xem thêm     

    07/09/2011, 01:18:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo thông tin mà bạn đưa ra thì không ai có thể trả lời được chính xác mức hình phạt cho từng bị cáo (kể cả Hội đồng xét xử trước khi nghị án cũng không thể khẳng định trách nhiệm hình sự của các bị cáo đến đâu). Việc xét xử ở nước ta chủ yếu căn cứ vào hồ sơ vụ án (các bị cáo khai nhận thế nào? Cơ quan điều tra thu thập được những chứng cứ gì?...). Để có câu trả lời xác đáng, luật sư phải tham gia vụ án, được tiếp xúc với các bị cáo, tiếp xúc với hồ sơ vụ án thì mới có thể tư vấn cụ thể và bảo vệ được quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Tuy nhiên tôi cũng xin trích dẫn một số thông tin về quy định của pháp luật hình sự để bạn tham khảo.
    1. Thông tin bạn đưa ra chưa rõ (các bị cáo có làm bị hại tê liệt ý chí hay không? Có mang bị hai đến chỗ khác để giam giữ, bắt khải trả tiền không?,,,) Hành vi của các đối tượng trên có thể cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều133, tội Cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 hoặc tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản theo điều 134. Cụ thể như sa: "Điều 133. Tội cướp tài sản

    1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 134. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Đối với trẻ em;

    e) Đối với nhiều người;

    g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    h) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    i) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản

    1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."

    Ngoài ra việc lượng hình còn căn cứ vào nhân thân của bị cáo, và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo theo quy định tại Điều 46  và Điều 48 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau: Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

    e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

    k) Phạm tội do lạc hậu;

    l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    m) Người phạm tội là người già;

    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    o) Người phạm tội tự thú;

    p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

    q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

    r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

    2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật

    Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

    Điều 48. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

    a) Phạm tội có tổ chức;

    b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

    d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

    đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

    e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

    g) Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;

    h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

    i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước;

    k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;

    l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

    m) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    n) Xúi giục người chưa thành niên phạm tội;

    o) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.

    2. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng". Ngoài ra còn một số Nghị quyết của TAND tối cao hướng dẫn thêm các Điều luật trên.
           Bạn có thể tham khảo các thông tin trên để hình dung trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Còn để đảm bảo được quyền lợi hợp pháp cho các bị cáo thì nên mới luật sư để tham gia bào chữa tại phiên tòa.
    Thân ái!

  • Xem thêm     

    07/09/2011, 12:58:15 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Theo thông tin mà bạn đưa ra thì hành vi của Vũ có dấu hiệu tội phạm nên phải bị xử lý về hình sự (tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tôi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản)!
    2. Nếu cơ quan công an phường không giải quyết thì bạn có thể yêu cầu công an Q1 xem xét để khởi tố (thẩm quyền thuộc cấp Quận). Nếu công an Q1 không khởi tố thì bạn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện công an Q1 về hành chính về hành vi làm trái quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    07/09/2011, 12:50:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo thông tin mà bạn đưa ra, tôi xin trả lời như sau:
    1. Bạn đã đặt cọc cho bên bán là 130 trđ tuy nhiên do yếu tố khách quan nên hai bên đã thỏa thuận chấm dứt hợp đồng. Do vậy hợp đồng đặt cọc của bạn không còn hiệu lực, bạn chỉ có thể yêu cầu bên bán hoàn trả số tiền đã giao. Vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Tòa án sẽ buộc bên bán phải hoàn trả số tiền trên cho bạn, từ ngày án có hiệu lực nếu bên bán chậm thanh toán thì phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định. Án phí do bên bán chịu.
    2. Nếu trong thỏa thuận thanh lý hợp đồng đặt cọc có thỏa thuận về thời hạn bên bán phải hoàn lại tiền mà bên bán không thực hiện thì bạn có thể gửi văn bản cho bên bán với nội dung không đồng ý thanh lý hợp đồng, bắt bên bán phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng. Không biết thửa đất chuyển nhượng thuộc địa bàn nào. Nếu ở Hà Nội thì chỉ cần 30m2 là đủ điều kiện tách thửa rồi. Bạn cần xem lại lý do dừng hợp đồng có đúng không.
    Chúc bạn thành công!