Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    18/10/2011, 10:24:52 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    Điều 85 Bộ luật lao động quy định về sa thải như sau:

    "1 - Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

    a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;

    b) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm;

    c) Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.

    2 - Sau khi sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương biết".
               Như vậy nếu việc đình công đó trái pháp luật thì mới có thể xác định là "không có lý do chính đáng" và có thể xử lý theo quy định tại điểm c, khoản1 Điều 85 BLLĐ. Còn nếu việc đình công đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật lao động sửa đổi năm 2006 thì Công ty bạn không có quyền kỷ luật lao động họ.

              Theo quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động năm 2006, một cuộc đình công được xác định là hợp pháp phải bảo đảm đầy đủ các yếu tố sau:

    1.  Cuộc đình công phải xuất phát từ tranh chấp lao động tập thể. Tranh chấp lao động tập thể bao gồm tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Theo đó, tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử dụng lao động vi phạm. Còn tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp về việc tập thể lao động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.

    2.  Tranh chấp lao động tập thể đó đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng tập thể người lao động không đồng ý với phương án mà các cơ quan có thẩm quyền đưa ra trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hoặc trong thời gian quy định mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp không tiến hành giải quyết tranh chấp, thì tập thể người lao động cũng có quyền tổ chức đình công.

    3.  Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện người lao động phải tổ chức lấy ý kiến về cuộc đình công theo quy định sau: Đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có dưới ba trăm người lao động thì lấy ý kiến trực tiếp của người lao động; đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có từ ba trăm người lao động trở lên thì lấy ý kiến của thành viên Ban chấp hành công đoàn cơ sở, Tổ trưởng tổ công đoàn và Tổ trưởng tổ sản xuất; trường hợp không có công đoàn cơ sở thì lấy ý kiến của Tổ trưởng, Tổ phó tổ sản xuất. Sau đó, Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể lao động ra quyết định đình công bằng văn bản và lập bản yêu cầu khi có ý kiến đồng ý của trên 50% tổng số người lao động đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có dưới ba trăm người lao động hoặc trên 75% số người được lấy ý kiến đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có từ ba trăm người lao động trở lên.

    4.  Đình công phải do Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời tổ chức và lãnh đạo. Đối với doanh nghiệp chưa có Ban chấp hành công đoàn cơ sở thì việc tổ chức và lãnh đạo đình công phải do đại diện được tập thể lao động cử và việc cử này đã được thông báo với công đoàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc tương đương.

    5.  Doanh nghiệp nơi người lao động đình công không thuộc danh mục doanh nghiệp không được đình công theo quy định của Chính phủ. Đối với những doanh nghiệp thuộc danh mục doanh nghiệp không được đình công cho dù là đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về đình công thì cuộc đình công đó vẫn được xác định là bất hợp pháp.

    6.  Cuộc đình công phải do người lao động trong cùng một doanh nghiệp hoặc cùng một bộ phận doanh nghiệp tiến hành. Trường hợp người lao động ở các doanh nghiệp khác nhau tổ chức đình công thì cuộc đình công này được xác định là bất hợp pháp.

    7.  Cuộc đình công đó không bị hoãn hoặc ngừng đình công theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

  • Xem thêm     

    18/10/2011, 06:39:52 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

               Vụ việc của bạn đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nguồn tin. Nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì công an sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

             Theo thông tin mà bạn đưa ra thì bạn chỉ là người bị hại. Bạn có quyền cung cấp thông tin về vụ việc để công an xem xét giải quyết chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh về tội phạm. “Một mất mười ngờ” nên bạn của bạn có thể nghi ngờ bạn là thủ phạm. Tuy nhiên, bạn không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Nếu bạn có tội thì nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.

             Công an được đào tạo qua trường lớp, được tích lũy kinh nghiệm để “bắt” tội phạm (nghề), còn tội phạm thì không được đào tạo để “trốn” công an. Do vậy, chỉ có loại tội phạm về chức vụ và phạm tội chuyên nghiệp mới có thể gây khó khăn cho quá trình điều tra, còn mấy loại “trộm cắp vặt” thì công an sẽ sớm tìm ra thôi. Nếu bạn không lấy tiền thì bạn không phải lo lắng gì cả, công an sẽ sớm xác định được thủ phạm và xóa đi nghi ngờ của mọi người.
  • Xem thêm     

    18/10/2011, 06:36:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 20 BLHS quy định về đồng phạm như sau:

    Điều 20. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    Theo thông tin mà bạn đưa ra thì bạn của bạn đi cùng xe với người giật điện thoại và được chia 200.000 đồng sau khi bán chiếc điện thoại đó. Như vậy có đủ căn cứ để xác định hai người đó có cùng ý chí để thực hiện tội phạm nên hai người phạm tội Cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 BLHS, cụ thể như sau:

    Điều 136. Tội cướp giật tài sản

    1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.”

    Như vậy, nếu cơ quan tố tụng chứng minh được trường hợp phạm tội trên là "có tổ chức "(có người chỉ huy, cầm đầu, có sự phối hợp, phân công của từng người…) theo quy định tại khoản 3, Điều 20 thì trường hợp phạm tội sẽ thuộc khoản 2 Điều 136, mức hình phạt từ 3 năm đến 10 năm. Còn nếu không chứng minh được là tội phạm có tổ chức thì hành vi đó chỉ thuộc khoản 1, Điều 136 và mức hình phạt là từ 1 năm đến 3 năm.

    Với tội cướp giật tài sản thì ít khi được hưởng án treo. Trong vụ việc này nếu bạn của bạn chỉ là người ngồi sau và được chia tiền chứ không phải là chủ mưu, cầm đầu thì mức trách nhiệm hình sự sẽ thấp hơn người giật điện thoại. Cụ thể mức hình phạt bao nhiêu còn phụ thuộc vào những tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án. Với thông tin sơ lược mà bạn đưa ra thì chưa thể xác định được mức hình phạt là mấy năm tù.

    Còn việc có thể được tại ngoại hay không phụ thuộc nhiều vào thái độ của bị cáo, có hợp tác với cơ quan điều tra hay không? Hoàn cảnh có thực sự khó khăn hay không. Với tội cướp giật tài sản thì rất hiếm khi được tại ngoại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/10/2011, 09:47:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                    Đúng là Luật không có quy định về xin cấp lại Sổ đỏ do cầm cố thế chấp. như bạn đã biết. Do vậy, trước khi tiến hành thủ tục xin cấp lại GCN, gia đình bạn phải có văn bản thông báo cho người đang giữ GCN đó trả lại GCN cho gia đình bạn (bởi việc thế chấp không hợp pháp).
                   Nếu người đó trả lại GCN thì tốt, gia đình bạn không cần thực hiện thủ tục xin cấp lại nữa.
                   Nếu họ không trả lại thì coi như bị mất và gia đình bạn có quyền xin cấp lại (việc người khác chiếm giữ, không trả lại thì cũng là mất và có quyền xin cấp lại).
                   Trong quá trình xin cấp lại có thủ tục thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng (3 số báo). Nếu người giữ GCN đó không có tranh chấp gì thì gia đình bạn sẽ được cấp GCN mới. Nếu họ có tranh chấp hợp đồng thế chấp thì gia đình bạn phải tham gia giải quyết vụ việc tranh chấp đó. Đến khi hết tranh chấp thì gia đình bạn mới có thể tiếp tục thủ tục xin cấp GCN được.
                    Nếu bạn không sợ mất thời gian thì gia đình bạn cần yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng GCN QSD đất trước rồi căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để cấp GCN QSD đất. Còn nếu bạn chỉ khởi kiện để đòi GCN QSDĐ thì Tòa án sẽ không thụ lý bởi không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 09:34:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.               Về trách nhiệm hình sự:

    -                   Khoản 2, Điều 12 BLHS quy định: “người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”;

    Khoản 1, Điều 202 BLHS quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

    Khoản 3, Điều 8 BLHS quy định: “3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”.

    Như vậy, căn cứ vào các quy định pháp luật trên thì em bé gây tai nạn giao thông làm chết 1 người, thuộc khoản 1 Điều 202 BLHS là loại tội phạm nghiêm trọng nên theo khoản 2, Điều 12 BLHS em bé đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    2.               Trách nhiệm dân sự:

    Điều 606 BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau :

    1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

    2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.

    Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

    3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

    Như vậy theo quy định pháp luật trên thì nếu em bé đó có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường thiệt hại. Nếu tài sản riêng không đủ thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường.

    - Mức bồi thường đường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được quy định cụ thể tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cụ thể như sau : «Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

                2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

                 Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                 b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                 - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                 2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                 a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                 b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

    Như vậy, người dưới 16 tuổi gây tai nạn giao thông làm chết 1 người thì không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải bồi thường dân sự thuộc loại bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định tại chương XXI Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao như đã nêu ở trên. Nếu người từ đủ 15 tuổi nhưng dưới 18 tuổi mà không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường thay.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    17/10/2011, 02:35:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng. Chào bạn!
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 12:39:22 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Khoản 3 Điều 42 BLLĐ quy định:  Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ.
            Như vậy, căn cứ vào quy định pháp luật trên thì bạn phải bồi thường tiền phí đào tạo nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Mức bồi thường là toàn bộ khoản chi phí mà công ty đã bỏ ra chứ không phải là 7/36. Do vậy bạn nên cân nhắc trước khi quyết định. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể thỏa thuận với Công ty về mức lương để tăng lương hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn.
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 12:30:50 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             1. Trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn có thể thuộc trường hợp quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai cụ thể như sau:
             "4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.".
            Theo thông tin mà bạn trình bày thì nguồn gốc đất của gia đình bạn là sử dụng trước năm 1993 và có đóng thuế sử dụng đất liên tục (sử dụng ổn định). Do vậy, bạn cần kiểm tra lại xem thửa đất đó hiện nay có phù hợp với quy hoạch sử dụng đất hay không. Nếu nay phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì gia đình bạn sẽ được cấp GCN theo quy định tại khoản 4 Điều 50 Luật đất đai nêu trên.
            2. Việc cấp GCN quyền sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội còn được quy định cụ thể tại Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND thành phố Hà Nội.
             Tại điểm 5.4 khoản 5, Điều 14 quy định như sau: Tại thời điểm sử dụng đất có hành vi vi phạm quy hoạch về xây dựng nhưng đến nay phù hợp với quy hoạch thì vẫn được xem xét cấp GCN quyền sử dụng đất.
            Bạn có thể tham khảo các quy định tại Điều 14 của Quyết định số 117 để biết thêm chi tiết.
            Nếu trường hợp gia đình bạn đủ điều kiện để được cấp GCN QSD đất theo quy định tại điểm 5.4 khoản 5, Điều 14 Quyết định 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND thành phố Hà Nội và khoản 4, Điều 50 Luật đất đai mà UBND phường và UBND quận Ba Đình không xem xét cấp GCN cho gia đình bạn thì bạn có quyền khiếu kiện theo quy định pháp luật.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 06:54:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     

    Chào bạn!
    Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Đối với trách nhiệm hình sự:
            Với những tình tiết mà bạn nêu ra thì chắc chắn người chém anh em bạn phạm tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS kể cả trong trương hợp thương tích của anh em bạn chưa đến 11% (vì sử dụng hung khí nguy hiểm và gây cố tật cho nạn nhân);
            Anh em bạn cần yêu cầu cơ quan y tế giám định thương tật để làm căn cứ giải quyết vụ án. Tỷ lệ thương tật của anh em bạn sẽ quyết định khung hình phạt thuộc khoản mấy của Điều 104 của bị cáo;
            Nếu cơ quan điều tra chưa khởi tố vụ án thì bạn có quyền làm đơn đề nghị Công an khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 105 BLTTHS;
            Nếu trong quá trình điều tra, cơ quan tố tụng chứng minh được hành vi dùng PHỚ chém người của bị cáo có thể dẫn đến án mạng hoặc mục đích là tước đi sinh mạng của nạn nhân thì bị cáo sẽ bị truy tố về tội Giết người theo quy định tại Điều 93, Bộ luật hình sự.
            Mức hình phạt bao nhiêu phụ thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS và phụ thuộc vào nhân thân của bị cáo. Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây của BLHS:

    Điều 93. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

     

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1.                 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Tỷ lệ thương tật được quy định tại: Bản quy định tiêu chuẩn thương tật (ban hành kèm theo Thông tư số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Liên Bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội "quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới") để làm ví dụ:

    a. Về trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm mất đốt ngoài (đốt 2) của ngón tay cái hoặc làm mất hai đốt ngoài (2+3) của ngón tay trỏ có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (các điểm a và b mục 5, phần IV, Chương I);

    b. Về trường hợp làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm cứng khớp các khớp liên đốt ngón tay giữa (III) ở tư thế bất lợi có tỷ lệ thương tật từ 7% đến 9% (điểm c mục 5, phần IV, Chương I);

    c. Về trường hợp làm giảm chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm một mắt giảm thị lực từ 4/10 đến 5/10, mắt kia bình thường có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (mục 7, phần II, Chương VIII);

    d. Về trường hợp làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích để lại sẹo to, xấu ở vùng trán, thái dương có tỷ lệ thương tật từ 6% đến 10% (điểm b, mục 1, phần I, Chương IV).

     (Theo Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao).

    2. Về trách nhiệm dân sự (Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) được quy định tại Nghị quyết03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau:

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.



  • Xem thêm     

    16/10/2011, 10:18:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn mua đất ở tỉnh nào? bạn cần xem lại hạn mức tách thửa đối với đất ở trên địa phương đó do UBND tỉnh quy định. Nếu hạn mức tách thửa UBND tỉnh quy định tối thiểu đối với đất ở là phải đảm bảo diện tích là 60m2 thì "Vị" đó làm đúng. Còn nếu diện tích tối thiểu để tách thửa đối với đất ở quy định là 50m2 thì bạn đúng. Bạn nên tìm Quyết định của UBND tỉnh quy định về hạn mức tách thửa đối với đất ở để làm căn cứ giải quyết vụ việc của bạn nhé.
    Lưu ý: nếu ở Hà Nội thì quy định ở Quyết định 58/2009/QĐ-UBND và hạn mức giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, tách thửa tối thiểu đối với đất ở là 30m2.
    Thân!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 10:08:34 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Điều đó phụ thuộc vào nội dung giấy chuyển nhượng viết như thế nào?
    Nếu viết là chuyển nhượng 3000m2 cho anh ba của bạn nhưng không nhắc gì đến 1000m2 thì 1000m2 đó vẫn là của ba bạn.
    Nếu ghi là chuyển nhượng cả 4000m2 cho anh 3 bạn thì anh ấy mới có thể sang tên toàn bộ.
    Để biết rõ là giấy chuyển nhượng đó có hiệu lực hay không, hiệu lực pháp luật đến đâu thì bạn nên pho to và chuyển cho LS xem tận mắt rồi mới "phán" chính xác được!
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 09:58:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng. Bạn có thể làm đơn ra công an để xem xét về hình sự nhưng đồng thời vẫn nên khởi kiện một vụ án dân sự.
    Quyết định cuối cùng là ở bạn. Nếu cần tư vấn thêm, tôi sẵn sàng giúp bạn!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 09:45:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Với những thông tin mà bạn cung cấp thêm, Luật sư trả lời bạn như sau:

    1.     Đối với việc chia thừa kế:

    -                                 Nếu ông bà bạn đều đã chết quá lâu và đã hết thời hiệu để yêu cầu chia thừa kế (10 năm…) thì chỉ có thể áp dụng quy định về chia tài sản chung nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 cụ thể như sau: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.

    Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì chỉ có 2 trường hợp được chuyển từ di sản thừa kế thành tài sản chung để áp dụng quy định của BLDS để chia:

    -                                 Trong thời hạn 10 năm không tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản xác nhận là đồng thừa kế;

    -                                 Sau thời hạn 10 năm không tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận là di sản thừa kế chưa chia.

    Do vậy, nếu gia đình bạn chưa có văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế thì chỉ cần mẹ bạn không đồng ý chia thừa kế thì sẽ không ai được chia khối tài sản đó.

    2.     Đối với việc vay nợ:

    Nếu mẹ bạn chỉ ký giấy với nội dung như vậy thì chủ nợ cũng khó mà lấy nhà đất của gia đình bạn.  Mẹ bạn không phải là người vay nợ; Thủ tục thế chấp không đúng quy định của pháp luật và trách nhiệm đối với khoản vay đó vẫn thuộc về anh họ bạn.

    3.     Đối với việc đòi GCN QSD đất:

    Trước đây một số Tòa án vẫn thụ lý giải quyết vụ án “Đòi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật này không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTDS, GCN QSD đất không phải là “tài sản” theo quy định của Bộ luật dân sự nên mới đây TAND tối cao đã chính thức có Công văn thống nhất áp dụng pháp luật đối với những tranh chấp này: Theo đó TAND tối cao hướng dẫn các Tòa án địa phương không được thụ lý, giải quyết các vụ án tranh chấp đòi GCN QSD đất. Mà phải hướng dẫn các đương sự tiến hành thủ tục xin cấp lại GCN.

    Do vậy, gia đình bạn có thể tiến hành thủ tục xin cấp lại GCN theo quy định của pháp luật.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 09:16:27 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                Trước đây, ở nước ta thiếu các quy định pháp luật về giao dịch về nhà ở (không có luật về nhà ở mà chủ yếu áp dụng một số văn bản dưới luật như Nghị định, thông tư, chỉ thị…). Đến năm 1991 mới lần đầu tiên có Pháp lệnh nhà ở (hiệu lực từ 01/7/1991) sau đó là Bộ luật dân sự năm 1995, rồi đến Luật nhà ở năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì các quy định về pháp luật nhà ở mới tương đối đầy đủ.

    Tuy nhiên, các giao dịch về nhà ở trước 01/7/1991 (mua bán, thuê, ở nhờ, thừa kế, đổi nhà, quản lý nhà vắng chủ…) rất nhiều nhưng không có quy định pháp luật điều chỉnh (không biết giao dịch thể nào là đúng, thế nào là sai). Đồng thời  giao dịch về nhà ở trước năm 1991 ngày càng có nhiều tranh chấp....

    Do vậy đến ngày 24/8/1998 UBTVQH10 đã ban hành Nghị quyết số58/1998/NQ-UBTVQH10 để quy định về giao dịch về nhà ở trước ngày 01/7/1991  thuộc sở hữu tư nhân do các cá nhân người Việt Nam trong nước tham gia (không áp dụng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức nước ngoài). Văn bản này đã tạo ra sự hoàn thiện về hệ thống pháp luật về nhà ở của nước ta (từ 1945-nay).

    Thế nhưng đến thời điểm đó, giao dịch về nhà ở trước 01/7/1991 có người  VN ở nước ngoài tham gia vẫn không có luật điều chỉnh nên những tranh hấp về nhà ở có yếu tố nước ngoài, Tòa án đều không thụ lý  hoặc đã thụ lý thì tạm đình chỉ giải quyết bởi không biết giải quyết thế nào (không có luật điều chỉnh).

    Phải đến ngày 27/7/2006 UBTVQH11 mới ban hành Nghị quyết số1037/2006/NQ-UBTVQH11 quy định về các giao dịch về nhà ở trước ngày 01/7/1991 có người VN định cư ở nước ngoài tham gia.

    Như vậy, từ ngày 27/7/2006 việc chia thừa kế của gia đình bạn mới có pháp luật điều chỉnh. Các con của ông bà ngoại bạn mới được quyền thừa kế di sản là nhà ở do ông bà ngoại bạn để lại hoặc có quyền khước từ di sản thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự.

    2.                Đến nay, di sản của ông bà ngoại bạn chưa chia theo quy định pháp luật nên vẫn thuộc quyền sở hữu chung của tất cả 5 người con của ông bà bạn (có quyền như nhau). Nếu chưa thực hiện thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật thì không ai có quyền tự định đoạt (làm Sổ, sang tên) nhà đất đó nếu không được các thừa kế khác đồng ý.

    3.                Hiện nay, mẹ bạn và dì bạn chỉ là “người quản lý di sản” chứ không có quyền tự ý tách thửa, làm sổ, hay chuyển nhượng cho người khác.

    4.                Thỏa thuận phân chia ranh giới giữa mẹ bạn và dì bạn không có giá trị để phân định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản.

    5.                Bạn nên khuyên mọi người tiến hành thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế. Nếu các thừa kế không thể tự thỏa thuận, phân chia thừa kế đối với nhà đất đó thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Sau khi di sản được phân chia một cách hợp pháp thì người được nhận di sản mới có quyền định đoạt phần thừa kế của mình.

    6.                Ông bà bạn (chủ sở hữu tài sản) có thể lập di chúc để định đoạt nhà đất đó thành di sản thờ cúng bằng cách lập di chúc để lại di sản thờ cúng (làm nhà thờ). Tuy nhiên, khi còn sống ông bà bạn không lập di chúc để lại ngôi nhà làm nơi thờ cúng thì nay phải được sự đồng thuận của tất cả các thừa kế thì ngôi nhà đó mới trở thành nhà thờ. Nếu chỉ một thừa kế của ông bà bạn không đồng ý để nhà đất lại làm nhà thờ thì nhà đất đó phải được phân chia theo quy định pháp luật.

    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 06:47:26 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           1. Theo quy định của luật khiếu nại tố cáo thì công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân khác đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét. Tuy nhiên hành vi đó bị xử lý hay không và xử lý thế nào thì lại là vấn đề khác. Nếu hành vi của ông Tùng cấu thành tội phạm thì ngoài việc xử lý hình sự với ông Tùng, Tòa án còn buộc ông Tùng phải hoàn trả bạn số tiền đã nhận .
           Theo tôi thì trong việc này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên đó chỉ là ý kiến của cá nhân tôi. Bạn vẫn có thể có đơn đến công an huyện để trình bày toàn bộ vụ việc và yêu cầu giải quyết. Nếu công an xử lý ông Tùng về hình sự thì bạn có thể yêu cầu đòi tiền mà không cần phải khởi kiện một vụ án khác.
           2. Nếu trong vụ việc này không có dấu hiệu hình sự thì bạn vẫn có thể khởi kiện một vụ án dân sự để yêu cầu Tòa dân sự giải quyết theo quy định pháp luật.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 06:34:48 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Anh em con mẹ trước của ba bạn cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ba bạn (con đẻ) nên cũng được thừa kế như bạn.
    2. Anh 3 bạn sẽ không thể đơn phương làm sổ đỏ nếu không được sự đồng ý của tất cả các thừa kế của ba bạn. Thủ tục phải tiến hành là khai nhận di sản thừa kế. Sau khi thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì các thừa kế mới có quyền định đoạt di sản đó.
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 06:28:24 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
     1. Theo quy định tại khoản 1, Điều 42 BLLĐ thì tiền trợ cấp thôi việc của bạn được tính như sau: Mỗi năm làm việc bạn sẽ được 1/2 tháng lương và phụ cấp;
     2. Thời gian tính thôi việc là thời gian bạn nhận được quyết định cho thôi việc của công ty;
     3. Bảo hộ lao động thì Công ty phải trang bị còn đồng phục thì theo quy định của công ty. Thông thường nếu NLĐ thôi việc thì Công ty lấy lại đồng phục và trả lại tiền cho NLĐ.
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 01:04:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            1. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích bao nhiêu, loại đất gì thì phụ thuộc vào nguồn gốc đất và quy hoạch sử dụng đất chứ không phụ thuộc vào "hàng xóm được cấp" như thế nào. Nếu hàng xóm nhà bạn có cùng nguồn gốc đất, cùng quy hoạch như nhau, đồng thời gia đình họ đã được cấp GCN đúng pháp luật thì gia đình bạn cũng có thể được cấp GCN QSD đất như vậy. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì phần đất mà gia đình bạn nhận chuyển nhượng thuộc quy hoạch hành lang an toàn giao thông nên đối với diện tích đất nằm trong quy hoạch sẽ không được cấp GCN QSD Đất.

    2. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì hành vi  của ông Tùng chưa thấy có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (không chứng minh được ông Tùng có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của gia đình bạn).
           Đây chỉ là quan hệ dân sự: Việc thông báo quy hoạch là công khai, mọi người dân đều có nghĩa vụ phải biết; Người nhận chuyển nhượng có nghĩa vụ phải tìm hiểu nguồn gốc đất… Do vậy, có thể bạn cũng có lỗi một phần nếu hợp đồng vô hiệu.

           Do vậy bạn nên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 12:41:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Ðiều 676 Bộ luật dân sự quy định: "
    Người thừa kế theo pháp luật 

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.".
              - Như vậy nếu ba bạn chết không để lại di chúc thì di sản thừa kế của ba bạn thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS nêu trên, trong đó những người con vợ trước của ba bạn cũng là "con đẻ" của ba bạn nên đều được hưởng thừa kế theo quy định pháp luật.
            - Nếu Giấy chứng nhận đối với diện tích 1000m2 đất đó vẫn đứng tên ba bạn thì tất cả các con phải đồng ý thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì mới sang tên được diện tích đất đó (thiếu 1 người cũng không được).
             Thủ tục khai nhận di sản thừa kế được thực hiện tại Phòng công chứng: Các thừa kế phải xuất trình giấy chứng tử, giấy CNQSD Đất, giấy khai sinh, CMND, Hộ khẩu của tất cả các thừa kế; Văn bản khai nhận phải được niêm yết tại UBND cấp xã phường trong vòng 1 tháng; Nếu không có tranh chấp khiếu kiện gì thì quyền sở hữu di sản mới được chuyển cho những thừa kế.
               Nếu thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế nêu trên không được thực hiện thì anh 3 của bạn không thể tự mình sang tên, định đoạt thửa đất đó được.
              Nếu các thừa kế không thống nhất được việc khai nhận và phân chia di sản thừa kế thì một trong các thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
                Thân ái!
     

  • Xem thêm     

    16/10/2011, 08:51:04 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Cán bộ Tòa án nhân quận 11 hướng dẫn bạn như vậy là sai, vi phạm quyền được ly hôn của công dân theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể Điều 90 và Điều 91, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định như sau:

    Điều 90. Thuận tình ly hôn

    Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.

    Điều 91. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

    Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn.

              Như vậy, cả hai vợ chồng có quyền cùng ký vào ĐƠN THUẬN TÌNH LY HÔN để yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn theo quy định tại khoản 2, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp này được xác định là VIỆC DÂN SỰ vì không có tranh chấp;
              Nếu chỉ một bên có ĐƠN XIN LY HÔN thì là VỤ ÁN TRANH CHẤP VỀ LY HÔN và Tòa án căn cứ vào khoản 1, Điều 27 BLTTDS để giải quyết.
              Bản chất ĐƠN XIN LY HÔN (một người ký) và ĐƠN THUẬN TÌNH LY HÔN (cả hai vợ chồng cùng ký đơn) hoàn toàn khác nhau. Việc áp dụng pháp luật và thủ tục cũng khác nhau nên khi đương sự "thuận tình" ly hôn mà cán bộ Tòa án cứ bắt họ phải "đơn phương" ly hôn (họ không tranh chấp mà cứ bắt họ tranh chấp) là hành vi trái pháp luật,xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (bạn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành vi đó của cán bộ tòa án theo quy định pháp luật).
               Còn ĐƠN KHỞI KIỆN vụ án dân sự theo mẫu hướng dẫn tại Nghị quyết02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TAND tối cao chỉ áp dụng với vụ án tranh chấp dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại. Nếu dùng mẫu đơn đó cho vụ án tranh chấp đơn phương ly hôn thì "có thể" chấp nhận được, còn thuận tình ly hôn không thể sử dụng đơn này.
              Do vậy nếu cán bộ Tòa án cứ bắt bạn phải đơn phương ly hôn thì bạn có thể khiếu kiện hành vi đó theo quy định của pháp luật.
    Chào bạn!