Chào bạn sansannguyen!
Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:
1. Về tình cảm:
Tình trang hôn nhân của anh chị bạn như vậy là “trầm trọng” theo quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình. Tại tiểu mục a.1 khoản a, mục 8 Nghị quyết
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của TAND tối cao hướng dẫn điều kiện cho đơn phương ly hôn theo Điều 89 LHN&GĐ như sau: “Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cả quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình”.
Do vậy, nếu anh rể bạn không muốn ly hôn mà chỉ mình chị bạn đơn phương ly hôn thì Tòa án cũng căn cứ vào các quy định pháp luật trên để giải quyết cho chị bạn được ly hôn.
Điều 90 LHN&GĐ quy định về Thuận tình ly hôn như sau:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.”.
Mặc dù anh chị bạn cùng ký vào đơn ly hôn nhưng nếu không thỏa thuận được với nhau về tất cả các vấn đề khác: Chia tài sản, nuôi con, án phí thì Tòa án không ra Quyết định thuận tình ly hôn mà vẫn xét xử vụ án theo quy định pháp luật và ghi nhận trong Bản án ly hôn những vấn đề mà hai bên đã thỏa thuận được.
2. Đối với tài sản:
Điều 95 LHN&GĐ quy định Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn như sau:
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”.
Như vậy, đối với ngôi nhà mà anh chị bạn đang ở nếu trong hợp đồng tặng cho đứng tên bên được tặng cho là một mình chị bạn và hiện nay trên Giấy chứng nhận cũng chỉ đứng tên mình chị bạn thì đó là căn cứ để xác định là tài sản riêng của chị gái bạn được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Khi đó, Tòa án sẽ giao cho chị bạn được sở hữu nhà và thanh toán một phần giá trị tu sửa (nếu có) cho anh rể bạn.
Nếu trong Hợp đồng tặng cho đứng tên hai vợ chồng thì đó là tài sản chung do được tặng cho chung trong thời kỳ hông nhân;
Nếu trong HĐ tặng cho đứng tên mình chị bạn nhưng sau khi cấp lại GCN mà đưa thêm tên anh bạn vào thì xác định là chị bạn đã tự nguyện NHẬP tài sản riêng vào thành tài sản chung và khi giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ chia đôi (có tính đến nguồn gốc tài sản).
Do vậy bạn cần xem lại giấy tờ nhà đất để biết quyền lợi của chị bạn.
3. Về con chung:
Điều 92 LHN&GĐ quy định Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:
“1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.”
Nghị Quyết
02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn cụ thể hơn là: “Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai.
Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác.”.
Như vậy, việc ai được quyền trực tiếp nuôi con sẽ do Tòa án quyết định để đảm bảo cho con được phát triển tốt cả về thể chất và tinh thần, thuận lợi cho việc học hành. Việc hỏi ý kiến của con trên 9 tuổi chỉ là một thủ tục, một căn cứ chứ không phải là yếu tố quyết định là giao con cho ai nuôi. Do đó quyền QUYẾT ĐỊNH cuối cùng vẫn là ở Tòa án nếu XÉT THẤY nếu giao con cho một bên nào đó nuôi sẽ tốt hơn cho con.
Trong vụ án ly hôn của chị bạn, vẫn chưa có gì chắc chắn là chị bạn sẽ được nuôi đứa con lớn trên 9 tuổi (mặc dù cháu có nguyện vọng ở với mẹ). Về nguyên tắc giải quyết vụ án là “án tại hồ sơ” do vậy nếu chị gái bạn không chứng minh được là nếu ở với mẹ thì con sẽ phát triển tốt về thể chất, tinh thần và thuận lợi học hành hành là ở với bố thì Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu của chị bạn. Với đứa nhỏ 4 tuổi cũng vậy!
Thực tế, nếu qua hồ sơ vụ án thể hiện điều kiện về văn hóa, kinh tế, thời gian của hai vợ chồng tương đương nhau thì Tòa án sẽ giao cho mỗi bên nuôi một con (nếu có 2 con), rất ít khi một bên được nuôi cả hai con (trừ trường hợp một bên mắc tệ nạn xã hội hoặc có nhược điểm về tinh thần).
Do vậy, chị bạn cần cung cấp đầy đủ các chứng cứ chứng minh về lợi thế vật chất, tinh thần và khả năng chăm sóc, giáo dục con cái để Tòa án xem xét.
Thân ái!