Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 10:56:19 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư chưa hiểu nội dung trình bày của bạn!
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 10:52:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Người đó có thể phạm tội Cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS hoặc Tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS (kể cả trong trường hợp nạn nhân không chết). Cụ thể thế nào còn tùy thuộc vào mức độ thương tật của nạn nhân và công cụ phương tiện phạm tội, mục đích phạm tội.
              Nếu chưa được được xóa án tích mà người đó phạm tội mới thì đó là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm được quy định tại Điều 49 BLHS và đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 10:30:12 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
              1. Nếu khi chuyển công tác, bạn đã bàn giao toàn bộ công việc cho người kế nhiệm thì trách nhiệm thực hiện tiếp tục công việc đó thuộc về người kế nhiệm, bạn không còn phải chịu trách nhiệm với những công việc phát sinh sau thời điểm bàn giao công việc.
              2. Đối với việc thẩm định hồ sơ và giá trị pháp lý của hồ sơ vay vốn thì bạn phải có trách nhiệm (bởi bạn là người ký hồ sơ). Còn việc thu hồi vốn và thanh lý hợp đồng thuộc về người kế nhiệm.
    Tóm lại, bạn chỉ phải chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm, còn những công việc phát sinh sau khi bàn giao thì thuộc về người khác.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 10:24:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           1. Thông báo về việc kháng cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 249 Bộ luật tố tụng dân sự. Nếu trong thông báo kháng cáo chỉ nêu là kháng cáo toàn bộ nội dung kháng cáo mà không nêu rõ lý do kháng cáo thì bạn có thể căn cứ vào quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 58 BLTTDS để đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm cho phép được đọc và sao chụp các tài liệu chứng cứ do người kháng cáo xuất trình (trong đó có đơn kháng cáo và các chứng cứ mà người đó xuất trình).
           2. Việc chuẩn bị thu thập chứng cứ trong vụ án dân sự là cần thiết, nó quyết định đến việc thắng thua của vụ án đó. Ngoài ra, thời điểm xuất trình chứng cứ cũng rất quan trọng (đó sẽ là chiến thuật trong tranh tụng). Do vậy, bạn chưa cần xuất trình tất cả những gì mình có. Những chứng cứ quan trọng bạn vẫn có thể xuất trình tại phiên tòa (nhất là trong những vụ án mà Tòa án có biểu hiện không khách quan).
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 10:00:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           1. Điều 401 BLDS quy định: Hình thức của hợp đồng dân sự có thể thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản và có công chứng, chứng thực hoặc phải xin phép thì phải tuân theo quy định đó.
           Hợp đồng vay tài sản là một trong các loại hợp đồng dân sự thông dụng được quy định tại Mục 4 của BLDS. Theo đó hợp đồng vay tài sản không bắt buộc phải có công chứng, chứng thực, không bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản... (Điều 471). Do vậy, hợp đồng của bạn chỉ cần viết tay là có hiệu lực pháp luật rồi. Bạn có thể xuất trình hợp đồng đó để cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
           2. Nếu bạn muốn xử lý theo pháp luật hình sự thì công an nơi bạn giao tiền sẽ giải quyết. Nếu bạn muốn khởi kiện một vụ án dân sự thì Tòa án nơi người vay cư trú là nơi có thẩm quyền giải quyết.
           3. Bạn muốn mời Luật sư tư vấn theo vụ việc hoặc tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho vụ việc trên thì nên liên hệ trực tiếp với Luật sư để trao đổi về chi phí và thủ tục thực hiện công việc. Chi phí và thù lao Luật sư phụ thuộc vào yêu cầu của bạn và mức độ tham gia của Luật sư đối với mỗi công việc cụ thể. Do vậy, cần có Luật sư tư vấn hoặc tham gia vào vụ việc của bạn thì bạn hãy liên hệ trực tiếp với Ls để được trợ giúp.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 08:24:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer


    Chào bạn! Bạn cần xem lại nội dung trả lời của mình bởi:


    Điều 202 BLHS quy định: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

           Như vậy, khung hình phạt cao nhất trong Điều 202 được quy định tại khoản 3 là từ bảy đến 15 năm tù. Theo quy định tại Điều 8 BLHS thì tội phạm RẤT NGHIÊM TRỌNG là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù .

           Khoản 2, Điều 12 BLHS quy định "Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.". Do vậy, nếu người dưới 16 tuổi không thể phạm tội theo Điều 202. Nếu cố ý gây tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử theo Điều 93 (Tội giết người) hoặc Điều 104 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác).

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 07:57:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    #0c0c0c;">Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    #0c0c0c;">        1. Theo nội dung thông tin mà bạn đưa ra thì Luật sư chưa thể xác định được là bạn của bạn có thể đòi lại được đất hay không. Bạn cần pho to toàn bộ nội dung các giao dịch đó để Luật sư xem và cho biết thông tin về nguồn gốc và hiện trạng thửa đất đó (ai đang sử dụng, quá trình sử dụng có xây dựng gì không...) thì Luật sư mới có thể tìm ra đáp án cho câu hỏi của bạn.#0c0c0c;">
            2. Bạn của bạn chỉ có thể đòi được đất nếu các giao dịch đó chưa có hiệu lực pháp luật. Để xem xét các giao dịch đó có hiệu lực pháp luật hay chưa cần phải xem xét các quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn, đặc biệt là các quy định tại  hướng dẫn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Cụ thể như sau:

          - Theo quy định tại Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định về việc cấp GCN QSD đất , thu hồi đất, thực hiện quyền của chủ sử dụng đất, bồi thường hỗ trợ, tái định cư quy định: Kể từ ngày 01/01/2008 bắt buộc các giao dịch về quyền sử dụng đất phải có GCN QSD đất mới được thực hiện. Do vậy, các giao dịch trên diễn ra trước ngày 01/01/2008 thì dù chưa có GCN QSD đất cũng vẫn có thể có hiệu lực pháp luật.
          -
    #0c0c0c;">Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy #0c0c0c;">định như sau:

           "Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

    c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

    c.3. Xác định thiệt hại.

    - Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

    Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

    - Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

    Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    - Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.".

           Như vậy, nếu bạn của bạn muốn đòi lại thửa đất đó thì phải khởi kiện ra Tòa án (nếu thửa đất đó đã có giấy tờ theo quy định tại khoản 1, 2 hoặc khoản 5 Điều 50 Luật đất đai hoặc có tranh chấp cả tài sản trên đất). Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật mà tôi vừa viện dẫn trên để giải quyết, đặc biện là các hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP.
           Do vậy, bạn hãy đối chiếu các quy định pháp luật trên vào trường hợp của bạn bạn. Nếu hợp đồng vô hiệu và bạn của bạn không có lỗi hoặc có lỗi nhưng giá trị đền bù thiệt hại nhỏ hơn lợi ích sau vụ kiện thì hãy kiện. Còn nếu không có căn cứ thì không nên kiện kẻo "tiền mất tật mang".
           Nếu muốn được tư vấn cụ thể hơn thì bạn có thể cung cấp thêm thông tin để Luật sư giải đáp cho bạn.

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 07:19:47 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Bạn nên trình báo toàn bộ sự việc đó cho công an huyện để xem xét giải quyết. Nếu người đó vay tiền của bạn rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền đó thì có thể họ phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Bạn cứ trình bày toàn bộ sự việc với công an để được giải quyết nhé, chúc bạn sớm lấy được số tiền đó. Nếu cần tư vấn thêm hãy liên lạc với Luật sư để được giải đáp.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 12:37:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Bạn không nên mất niềm tin vào công lý như vậy. Nghề luật thì phải xuất phát từ cái TÂM. Tôi được biết có rất nhiều vị CSĐT, thẩm phán, KSV rất có tài và có tâm... do vậy đừng vì một số người xấu mà bạn đánh giá cả bộ máy công quyền như vậy.
              Vụ việc này gia đình nên mời LS tham gia để bảo vệ quyền lợi. Còn việc "giúp" kiểu đó không khéo lại thành phạm tội (Hối lộ và đưa hối lộ...).

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 12:29:52 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Với các loại Hợp đồng lao động  bạn phải tuân thủ quy định tại Điều 27 BLLĐ (Nếu doanh nghiệp của bạn đã có nhân viên pháp chế hoặc quản lý nhân sự thì họ có thể giúp bạn thực hiện ký kết hợp đồng theo yêu cầu của bạn và tuân thủ quy định tại Điều 27 BLLĐ).
    2. Với việc đặt cọc thì bạn không thể ghi trong H ĐLĐ mà có thể ký một hợp đồng khác theo quan hệ pháp luật dân sự. Bạn có thể liên hệ với LS ở diễn đàn này hoặc LS Long theo số 0988823338 để được tư vấn và soạn thảo HĐ.

  • Xem thêm     

    25/10/2011, 12:12:55 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn cần ký hợp đồng lao động với người ngoài công ty đó là có thể đủ điều kiện thực hiện hợp đồng tư vấn giám sát hoặc ký hợp đồng uỷ quyền cho người ngoài công ty thực hiện (nếu chủ công trình A đồng ý)
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 11:37:45 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư nhất trí với ý kiến của bạn. Nếu thỏa thuận đặc cọc ghi trong HĐLĐ thì bạn có thể bị xử lý theo quy định tại Nghị định 47/2010. Do vậy, bạn chỉ có thể thỏa thuận đặt cọc theo quy định của BLDS trong giao dịch dân sự.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 06:32:35 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           Hành vi của người vay tiền có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 140 BLHS (thông qua giao dịch vay mượn rồi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản).
          Do vậy, để đòi lại số tiền đó bạn làm đơn trình báo hoặc đơn tố giác tội phạm gửi đến công an cấp quận, huyện nơi có thỏa thuận vay tiền ghi trong giấy vay (Hà Nội). Cơ quan công an sẽ xem xét và truy tìm thủ phạm để xử lý trước pháp luật, trả lại tài sản cho bạn.
          Trong đơn bạn nên trình bày rõ nội dung sự việc: Xảy ra khi nào, ở đâu, số tiền bao nhiêu, quan hệ giữa hai bên thế nào...), yêu cầu của bạn, thông tin về nhân thân, địa chỉ gia đình của người đó (VIỆC GÌ - CỚ BỞI LÀM SAO - BAO GIỜ TRÔNG THẤY - KHI NÀO MỚI THÔI). Hi vọng bạn sẽ sớm tìm lại được tài sản.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 06:21:47 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
          1. Như vậy, là bạn đã hiểu thêm phần nào những điều tôi muốn nói lần trước. Trại giam cũng như xã hội bên ngoài nên cũng có những mặt trái của nó... chỉ có những người trong nghề hoặc trong cuộc mới biết được..
          2. Việc công an giữ xe của bạn đó là để điều tra: Nếu chiếc xe đó được sử dụng vào việc phạm tội thì gọi là "công cụ, phương tiện phạm tội" và bị tịch thu. Nếu không liên quan đến vụ án thì công an sẽ trả lại chiếc xe đó. Việc giữ xe như vậy là đúng pháp luật.
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 06:14:29 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng! Cảm ơn bạn. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với Luật sư để được giải đáp.
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 08:59:44 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
         1. Theo quy định tại Điều 27 của Bộ luật lao động thì có 3 loại Hợp đồng lao động là: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động xác định thời hạn 1 năm đến 3 năm và Hợp đồng theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định thời hạn dưới 1 năm.
          Do vậy nếu lần đầu bạn ký hợp đồng mùa vụ, lần 2 hai ký hợp đồng xác định thời hạn 1 năm đến 3 năm, sau đó ký HĐLĐ không xác định thời hạn là vẫn phù hợp quy định pháp luật (không được ký  liên tiếp 3 hợp đồng không xác định thời hạn là được).
          2. Việc đặt cọc trong hợp đồng lao động pháp luật không quy định, cũng không cấm. Do vậy, bạn có thể căn cứ vào quy định của BLDS để thỏa thuận đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng.
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 07:24:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

           Vâng! Chào bạn. Nếu có thông tin thêm về nội dung vụ việc và cần tư vấn thì bạn hãy cung cấp thông tin để các Luật sư tư vấn miễn phí cho bạn!
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 07:17:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Bạn cần liên hệ với Điện lực của địa phương xem trước đây có thỏa thuận gì không?
               Pháp luật quy định hai trường hợp được bồi thường là: Gia đình bạn bị thu hồi đất theo Điều 38 Luật đất đai (do thuộc hành lang lưới điện theo quy hoạch) hoặc việc sử dụng đường điện đó gây thiệt hại cho người khác (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra).
             Do vậy, nếu gia đình bạn không thuộc hai trường hợp trên thì khó mà có thể yêu cầu Điện lực bồi thường. Vậy bạn cần tìm hiểu và cung cấp thêm thông tin để Ls tư vấn chính xác cho bạn.
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 07:11:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào ban!

    Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 104 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

    #c00000;">          Như vậy, để xác định bạn của bạn có phải "đi tù nữa" hay không phụ thuộc vào tỷ lệ thương tật của nạn nhân, hung khí mà người đó sử dụng để gây thương tích, đối tượng bị gây thương tích, hậu quả để lại... thì mới xác định được là bạn của bạn có phải "đi" nữa hay không.  Nếu bạn của bạn chưa hết thời gian thử thách của án trước mà nay lại phạm tội thì đó là tái phạm và sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự.
             Tuy nhiên bạn cũng lưu ý là đối với trường hợp phạm tội thuộc khoản 1, Điều 104 BLHS thì công an chỉ khởi tố khi có đơn yêu cầu của nạn nhân (Điều 105 BLTTHS).  Do vậy, bạn nên khuyên gia đình bạn ấy bồi thường cho nạn nhân và xin họ làm đơn bãi nại.

  • Xem thêm     

    24/10/2011, 12:39:36 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư nhất trí với ý kiến của bạn duchoaiemail.
    Thực tiễn thì Tòa án thường xác định điều khoản phạt HĐ như vậy là vô hiệu một phần (đối với phần vượt quá 8%) nên chỉ chấp nhận mức phạt hợp đồng là 8% giá trị bị vi phạm.