Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    17/12/2011, 12:23:30 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    #f4f4f4;">Chào bạn!

    #f4f4f4;">Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    #f4f4f4;">        1.    Theo thông tin mà bạn nêu thì thửa đất của gia đình bạn đã được cấp GCN QSD đất do vậy về mặt pháp lý thì gia đình bạn có quyền nhận tiền bồi thường, đền bù theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, do thửa đất đó đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất gia đình bạn tạm thời chưa thể được nhận GCN QSD đất.

    #f4f4f4;">        2.    Gia đình bạn muốn nhanh được nhận tiền đền bù, hỗ trợ thì phải gửi đơn đến UBND xã để đề nghị xã hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003. Nếu UBND xã tổ chức hòa giải không thành thì bạn khởi kiện tại TAND cấp huyện nơi có thửa đất đó theo quy định pháp luật. Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án xác định GCN QSD đất của gia đình bạn được cấp đúng pháp luật thì gia đình bạn sẽ được nhận số tiền bồi thường, đền bù đó;

    #f4f4f4;">       3.    Theo thông tin mà bạn nêu ra thì gia đình bạn có căn cứ để thắng kiện, do vậy bạn khẩn trương tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai để sớm nhận được tiền đền bù, bồi thường. Trong vụ án đó bạn cũng có thể yêu cầu bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho bạn do gia đình bạn chậm được nhận số tiền đền bù, bồi thường đó.

    #f4f4f4;">Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    17/12/2011, 12:12:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    #f4f4f4;">Chào bạn sora2508!

    #f4f4f4;">Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    #f4f4f4;">      1.    Theo thông tin mà bạn nêu thì chưa thấy có căn cứ xác định ông Giám đốc đó đã phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Do vậy, bạn hãy tìm hiểu xem ông ta có hành vi nào gian đối nhằm chiếm đoạt tài sản của mọi người hay không (ví dụ đưa ra những thông tin sai sự thật về tình hình doanh nghiệp, vốn điều lệ… hoặc các thủ đoan khác để mọi người giao tiền cho ông ta). Nếu ông Giám đốc đó có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của mọi người thì ông ta sẽ phạm tội lừa đảo chiếm đoat tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS; Nếu ông ta vay tiền rồi gian dối để không trả nợ hoặc sử dụng vào mục đích phi pháp dẫn đến không còn khả năng hoàn trả hoặc bỏ trốn… nhằm chiếm đoat tài sản của bạn thì ông ta sẽ phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS;
           
    2.    Vụ việc của bạn như vậy là phức tạp do vậy bạn nên trình báo toàn bộ sự việc với công an nơi công ty có trụ sở để được giải quyết. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xử lý hình sự với ông Giám đốc đó và buộc ông ta phải trả lại tiền cho bạn và các bị hại khác. Nếu vụ việc không có dấu hiệu tội phạm thì bạn nên ủy quyền cho người có "kinh nghiệm" về thu hồi nợ để họ thực hiện việc đòi nợ cho bạn. Nếu không thể thực hiện được các biện pháp trên thì bạn mới nên khởi kiện một vụ án dân sự để đòi nợ.

  • Xem thêm     

    16/12/2011, 11:52:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    #f4f4f4;">Chào bạn ngoxuanchinh!

    #f4f4f4;">Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    #f4f4f4;">      1.    Theo quy định của pháp luật thì phòng Địa chính của Phường, phòng TN&MT của cấp huyện… là nơi lưu giữ và quản lý các hồ sơ, tài liệu về đất đai. Do vây, bạn có thể liên hệ với cán bộ địa chính phường Quang Trung hoặc Phòng TN&MT quận Hà Đông để được biết các thông tin về thửa đất của gia đình bạn. Bạn có thể làm đơn xin cấp trích lục bản đồ thửa đất của gia đình bạn để có căn cứ giải quyết tranh chấp với hàng xóm;
           2.    Theo thông tin bạn nêu ra thì trong quá trình sử dụng đất thì gia đình bạn có kê khai và xin cấp GCN QSD đất nhưng diện tích đất không đủ diện tích tách thửa nêu chưa được cấp GCN QSD đất (từ tháng 6/2004 đến 10/4/2009 diện tích thửa đất tối thiểu để được tách thửa ở ngoại thành Hà Nội là 50m2, từ ngày 10/4/2009 đến nay diện tích tối thiểu để được phép tách thửa trên địa bàn Hà Nội là 30m2). Tuy nhiên, đến nay thửa đất đó đã được tách ra thành một thửa đất riêng biệt trước ngày 10/4/2009 thì thửa đất đó của gia đình bạn có thể được cấp GCN QSD đất (nếu không còn tranh chấp và thửa đất đó có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai). Bạn có thể tham khảo quy định này tại Điều 3, Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội để được biết thêm chi tiết;
          3. Việc tranh chấp mốc giới đất của gia đình bạn phải căn cứ vào hồ sơ địa chính và mốc giới trên thực địa để giải quyết. Do vậy, bạn phải xem lại diện tích, kích thước thửa đất của gia đình bạn và các thửa đất xung quanh qua các thời kỳ bản đồ so  với diện tích đất thực tế đang sử dụng thì mới xác định được gia đình nào lấn chiếm đất của gia đình nào.

  • Xem thêm     

    16/12/2011, 11:30:56 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.   Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội quy định kích thước, diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa và việc cấp Giấy chứng nhận cho thửa đất có diện tích nhỏ hơn mức diện tích tối thiểu ghi tại Điều 1 được quy định như sau:

    “1) Thửa đất được hình thành từ việc tách thửa và thửa đất còn lại sau khi tách thửa nếu đảm bảo các điều kiện sau thì được cấp Giấy chứng nhận:

    a) Có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3 m trở lên;

    b) Có diện tích không nhỏ hơn 30m2/thửa;

    2) Không cho phép tách thửa đối với các thửa đất tại các dự án phát triển nhà ở theo quy định được Nhà nước giao đất, các dự án đấu giá quyền sử dụng đất để xây dựng nhà ở.

    3) Nếu người sử dụng đất xin tách thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu (thửa đất còn lại có diện tích, kích thước lớn hơn mức tối thiểu) để hợp với thửa đất ở khác liền kề tạo thành thửa đất mới có kích thước, diện tích bằng hoặc lớn hơn mức diện tích tối thiểu quy định tại khoản 1 Điều này thì được phép tách thửa đồng thời với việc hợp thửa đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới. Trường hợp thửa đất còn lại có diện tích, kích thước nhỏ hơn mức tối thiểu thì không được phép tách thửa.

    4) Nếu thửa đất đang sử dụng được hình thành trước ngày quy định này có hiệu lực thi hành (trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu quy định tại khoản 1 Điều này, đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận thì người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận. Việc xây dựng nhà ở, công trình trên thửa đất phải theo quy định về việc cấp phép xây dựng.

    5) Đối với trường hợp thửa đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, cơ quan Công chứng không làm thủ tục công chứng chuyển quyền sử dụng đất đối với trường hợp: khi chuyển quyền có tách thửa đất thành hai hoặc nhiều thửa đất, trong đó có một hoặc nhiều thửa không đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và các thửa đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều này.”

                Như vậy, thửa đất của bạn nhỏ hơn 30m2 là nhỏ hơn diện tích tối thiểu để tách thửa trên địa bàn Hà Nội. Do vậy, thửa đất đó không đủ điều kiện để được tách thửa theo quy định của pháp luật.

               2.     Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bạn viết tay năm 2005, không có công chứng chứng thực nên không có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng đó vô hiệu cả về nội dung và hình thức nên bạn không thể căn cứ vào hợp đồng đó để xin cấp GCN QSD đất;

              3.     Để được tách thửa đất đó thì bạn chỉ có thể thỏa thuận với chủ sử dụng đất để tăng điện tích đất chuyển nhượng cho đủ 30m2, mặt tiền tối thiểu 3m… thì mới có thể thực hiện thủ tục tách thửa.

             4.     Nếu không thể tăng diện tích thửa đất đó thì bạn chỉ còn một cách duy nhất là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đó. Khi Tòa án thụ lý, các bên hòa giải thành với diện tích đó và Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự đó là “giấy tờ” theo quy định tại khoản 5, Điều 50 Luật đất đai nên căn cứ vào Quyết định đó để bạn xin cấp GCN QSD đất với diện tích 26m2 đất đó (tôi đã từng thực hiện vài trường hợp như vậy).
             Tuy nhiên cách này không dễ thực hiện bởi Tòa án cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có Tòa án cho rằng, sự thỏa thuận đó không phù hợp với pháp luật nên không đồng ý lập biên bản hòa giải thành và không ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự (vẫn xử bình thường) hoặc bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn để có được kết quả như ý. Do vậy, cách tốt nhất là bạn nên thỏa thuận để tăng điện tích đất đủ điều kiện tách thửa hoặc nhờ Luật sư thực hiện thủ tục tách thửa cho bạn theo cách thứ 2.

    Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    15/12/2011, 01:02:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Nếu có căn cứ xác định thửa đất tranh chấp là đất phần trăm thời kỳ năm 1960 ("đất cụ Hồ") chia cho 7 người (2 cụ nội, ông nội, bà nội, bác cả, bác hai, bác 3) thì toàn bộ diện tích đất đó là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của 7 người đó;
                 2. Theo nội dung bạn trình bày thì thửa đất đó đã được định đoạt bằng hình thức chuyển nhượng và di chúc của ông bà bạn. Như vậy, đối với diện tích đã chuyển nhượng, nếu không có tranh chấp gì thì đã thuộc về người nhận chuyển nhượng. Còn đối với di chúc, di huấn mà bạn nói thì bạn cần lưu ý là: Trong khoảng thời gian có hiệu lực của Bộ luật dân sự năm 1995, pháp luật không thừa nhận đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình là di sản. Nếu đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình mà có một người chết trong thời kỳ có hiệu lực của BLDS năm 1995 thì những thành viên còn lại được sử dụng phần đất của người chết, nếu trong hộ gia đình đó không còn ai thì Nhà nước thu hồi (Đến khi có Bộ luật dân sự năm 2005 thì mới quy định di sản thừa kế bao gồm cả đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình).
                 Như vậy, nếu thông tin mà bạn nêu chính xác thì thửa đất của gia đình bạn sẽ là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những thành viên của hộ gia đình thời kỳ chia đất. Những thành viên nào chết trước 01/01/2006 (thời điểm có hiệu lực của BLDS năm 2005) thì phần sở hữu tài sản đó thuộc về các thành viên còn lại. Nếu có thành viên nào chết sau 01/01/2006 thì phần tài sản của họ thuộc về các thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nếu các bác bạn không được chia đất, cũng không được thừa kế QSD đất thì không có căn cứ để đòi lại đất đó của bác cả.
                 Trong vụ việc của gia đình bạn phải xem lại nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và nhu cầu sử dụng đất của từng người thì mới có thể giải quyết vụ việc một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
                 Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể nêu câu hỏi để luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    15/12/2011, 12:28:52 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn bạn!
  • Xem thêm     

    14/12/2011, 09:21:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau: 

    1. Vụ án trên là vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh, thế chấp tài sản của bên thứ ba. Do vậy, Tòa án phải xem xét đến hiệu lực pháp luật của Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản của Bên thứ ba (bảo lãnh). Nếu hợp đồng tín dụng có hiệu lực pháp luật thì mới chấp nhận yêu cầu đòi nợ cả gốc và lãi của Ngân hàng. Nếu hợp đồng tín dụng vô hiệu thì Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu đòi khoản tiền nợ gốc và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu (theo Điều 137 BLDS);

    2. Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba (hoặc hợp đồng bảo lãnh): Tòa án cũng phải xem xét giá trị hiệu lực của hợp đồng này. Nếu hợp đồng này có hiệu lực pháp luật mới phát sinh nghĩa vụ của bên bảo lãnh. Khi hợp đồng tín dụng bị vi phạm thì phát sinh nghĩa vụ của bên bảo lãnh (trả nợ thay, nếu không thì sẽ bị xử lý tài sản thế chấp để trả nợ) và Tòa án phải xem xét đến trách nhiệm của bên bảo lãnh.

    Thực tế Ngân hàng có yêu cầu Tòa án xem xét trách nhiệm của Bên bảo lãnh và yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp (xem xét hợp đồng bảo lãnh, thế chấp tài sản của bên thứ ba). Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm không xem xét đến trách nhiệm của Bên bảo lãnh và tài sản bảo lãnh, thế chấp và vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

    Điều 283 BLTTDS quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

    Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

    1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

    2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;

    3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.”.

    Do vậy, có căn cứ để các đương sự yêu cầu kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm trên.

  • Xem thêm     

    13/12/2011, 09:58:10 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    13/12/2011, 09:54:12 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn moinguoilaban51!

    Bạn hỏi: "xin luật sư cường tư vấn giùm tôi 1 việc , tôi và vợ tôi cươi nhau đã có 2 đứa con nhưng chúng tôi chưa lam đăng ký kết hôn chúng tôi cưới nhau năm 1996 , nay vợ tôi đơn phương làm đơn len tòa xét cho công nhận chúng tôi không phải là vợ chồng ,và đòi chia tài sản , về việt này tôi xin tham khảo ý kiến luật sư .nếu ra tòa khi xét sử tôi được quyền kêu tòa giải quyết vụ việt thanh 3 giai đoạn trước tiên là về phần công nhận chúng tôi không phải là vợ chồng còn vấn đề về tài sản thì chuyển qua tranh chấp dân sự ví dụ nội dung là chưa phân biệt tài sản chung hay riêng .còn thứ 3 là về phần con cái nếu chưa chứng minh được nguồn gốc tài sản thì sẽ không tính dược về quyền kinh tế nuôi con ,xin luật sư tư vấn giúp giùm ,ở đây tôi muốn nói rõ hơn , gì hiện nay cô ta đang làm nghề có vi phạm pháp luật nhưng đang trong khi theo dõi của ngành công an nên tôi không được phép tiết lộ bí mật với tòa án ,còn tôi mua bán ngành dịch vụ cầm đồ có giấy phép kinh doanh đàng hoàn nhưng do đang chờ thanh lý để cũng cố thêm nguồn vốn tôi đang tạm ngưng hoạt động .,vậy tôi có lý do gì thuyết phục tòa không ,,xin chân thành cảm ơn".
           
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định:

    Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

    1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

    2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

    Điều 163. Phạm vi khởi kiện

    1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

    2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

    3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

    Điều 38. Nhập hoặc tách vụ án

    1. Toà án có thể nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Toà án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.

    2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật.

    3. Khi nhập hoặc tách vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Toà án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định và gửi ngay cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

    Điều 59. Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn

    1. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:

    a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;

    b) Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện;

    c) Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;

    d) Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

    2. Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện.

    Điều 60. Quyền, nghĩa vụ của bị đơn

    1. Bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:

    a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;

    b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;

    c) Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;

    d) Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện.
    2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn.   
            
             
     Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì "vợ" bạn có quyền khởi kiện và Tòa án có nghĩa vụ giải quyết vụ án trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của vợ bạn. Bạn có quyền phản tố đối với các yêu cầu khởi kiện của vợ bạn nhưng không có quyền hạn chế yêu cầu khởi kiện của vợ bạn. Do vậy, nếu vợ bạn yêu cầu Tòa án  tuyên bố quan hệ với bạn không phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp và yêu cầu giải quyết về con và tài sản thì Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết cả ba nội dung trên. Bạn có yêu cầu Tòa án tách ra làm 2 hoặc 3 vụ án cũng không được. Do vậy, bạn phải theo kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/12/2011, 08:58:35 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn có thể khởi kiện một vụ án dân sự để đòi nợ tại Tòa án nhân dân cấp huyện, nơi Bé cư trú để được giải quyết.
    Bộ luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ như sau:

    Điều 81. Chứng cứ

    Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.

     

    Điều 82. Nguồn chứng cứ

    Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

    1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;

    2. Các vật chứng;

    3. Lời khai của đương sự;

    4. Lời khai của người làm chứng;

    5. Kết luận giám định;

    6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;

    7. Tập quán;

    8. Kết quả định giá tài sản;

    9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.

     

    Điều 83. Xác định chứng cứ

    1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.

    2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.

    3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.

    4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.

    5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

    6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định.

    7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.

    8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.
               Do vậy, bạn có thể xuất trình những đoạn ghi âm, tin nhắn đó cho Tòa án để làm chứng cứ giải quyết vụ án. Bạn hãy sao chép nội dung ra đĩa CD và kèm theo văn bản trình bày về nguồn gốc những chứng cứ đó để tòa án xem xét. Nhưng nếu tính lợi ích kinh tế thì bạn không nên theo kiện vụ án này bởi thời gian, công sức và chi phí sẽ lớn hơn những gì mà bạn nhận được sau vụ kiện (nếu bạn thắng kiện). Do vậy bạn hãy tìm cách khác để giải quyết vụ việc hiệu quả hơn.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    13/12/2011, 08:45:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                  Khi có tranh chấp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ xác định diện tích đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hai bên (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) so với diện tích sử dụng đất thực tế trên thực địa.
                  Nếu những cây đó do bạn trồng nhưng đất là của nhà hàng xóm, nay có tranh chấp thì bạn có quyền chặt bỏ những cây đó mà không phải bồi thường. Nếu bạn không chặt bỏ những cây cối đó, khi giải quyết tranh chấp, Tòa án xác định đất là của nhà hàng xóm thì Tòa án cũng buộc gia đình bạn phải di dời những cây đó  ra khỏi phần đất tranh chấp để trả lại đất cho gia đình hàng xóm.
  • Xem thêm     

    13/12/2011, 08:37:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Về nguyên tắc thì bạn phải có tư cách là chủ sở hữu tài sản thì bạn mới có quyền đòi lại tài sản đó từ người khác (do người khác chiếm giữ trái phép tài sản của bạn). Đối với quyền sử dụng đất, phải là một trong các trường hợp quy định tại Điều 49 hoặc Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì gia đình bạn mới có cơ hội được Nhà nước công nhận là chủ sử dụng đất hợp pháp (chủ sở hữu tài sản), khi đó bạn mới có quyền đòi  đất người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp của bạn chưa thấy có căn cứ nào để xác định gia đình bạn có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất đó theo quy định pháp luật. Do vậy, dù bạn có thực hiện thủ tục tranh chấp, kiện tụng nào đi nữa thì bạn cũng sẽ thua kiện bởi bạn chưa phải là chủ sử dụng đất theo quy định pháp luật.
  • Xem thêm     

    13/12/2011, 08:24:42 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Kết quả thi đậu tốt nghiệp cao đẳng nghề chính quy của bạn không phải là điều kiện để bạn được học sĩ quan. Kết quả thi đó của bạn cũng không thể giúp bạn được vào thẳng các trường trung cấp trong quân đội. Nếu muốn học những trường lớp trong quân đội để được trở thành sĩ quan hay quân nhân chuyên nghiệp thì bạn phải có cơ hội "được" đi thi (sau 1 năm thực hiện nghĩa vụ) và trúng tuyển một trường nào đó. Nếu bạn được đi thi và đỗ hệ đại học thì sẽ thành sĩ quan, còn nếu đỗ trung cấp, cao đẳng thì chỉ là kỹ thuật viên, quân nhân chuyên nghiệp thôi.
               Tuy nhiên, quân đội cũng là một môi trường tốt để bạn học tập, rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Bản lĩnh của người lính sẽ là hành trang để bạn vững bước trên đường đời... Trước khi học Đại học Luật để trở thành giảng viên, luật sư... tôi cũng đã từng là người chiến sĩ và tôi luôn tự hào về điều đó.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    13/12/2011, 12:55:37 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn phuongthinh_115!
    Tôi nhất trí ý kiến tư vấn của Luật sư Quyển và xin bổ sung như sau:
              1. Luật hôn nhân và gia đình của nước ta từ trước tới nay đều quy định nguyên tắc của quan hệ hôn nhân là "tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng". Do vậy, nếu bạn muốn duy trì cuộc hôn nhân đó nhưng chồng bạn không muốn duy trì thì cũng không thể tiếp tục được. Hạnh phúc vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở "tự nguyện" của hai bên. Nếu bạn muốn tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân đó thì phải tháo gỡ những mâu thuẫn, vướng mắc trong quan hệ vợ chồng chứ không phải là cản trở việc ly hôn của chồng. Bạn phải tìm ra cái gốc của sự mâu thuẫn để giải quyết thì mới mong có kết quả... Bạn có thể "giữ người ở chứ không thể giữ người đi"...Vì vậy bạn hãy cân nhắc để tìm ra hướng giải quyết cho cuộc hôn nhân của bạn.
              2. Nếu chỉ mình chồng bạn ký đơn xin ly hôn thì Tòa án cũng thụ lý để giải quyết. Nếu bạn không đồng ý ly hôn thì Tòa án sẽ căn cứ vào Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và hướng dẫn tại Nghị quyết số02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xác định có cho chồng bạn đủ căn cứ để đơn phương ly hôn hay không. Cụ thể như sau:

    "Điều 89. Căn cứ cho ly hôn

    1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

    "a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
    a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
    - Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó,
    bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
    - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi
    ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

    a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
    a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt
    .
    "

  • Xem thêm     

    13/12/2011, 11:51:40 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn Nguyenmaihang1976!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
             1. Mảnh đất đó là tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên dù có đứng tên mình chồng bạn thì vẫn mặc nhiên được coi là tài sản chung vợ chồng. Nếu chồng bạn cho rằng đó là tài sản riêng thì phải tự chứng minh.
             Do vậy, chồng bạn không thể tự mình định đoạt (chuyển nhượng, tặng cho, cầm cố, thế chấp...) thửa đất đó nếu không có ý kiến của bạn. Còn đối với với việc cầm cố trái pháp luật thì bạn không thể kiểm soát được. Tuy nhiên, đối với những giao dịch vay mượn, cầm cố, thế chấp mà mình chồng bạn tham gia thì chỉ chồng bạn phải chịu trách nhiệm đối với tài sản đó. Bạn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những giao dịch do chồng bạn tự thực hiện nếu giao dịch đó phục vụ nhu cầu sinh hoạt tối thiếu, thiết yếu của gia đình.
              2. Để ngăn chặn việc sang tên, chuyển nhượng thửa đất đó, bạn có thể gửi đơn đến Phòng TN&MT đề nghị không sang tên thửa đất đó vì tài sản đang có tranh chấp. Còn việc cắm Sổ ở tiệm cầm đồ thì bạn không lo vì cá nhân chồng bạn sẽ phải chịu trách nhiệm đối với việc đó (1/2 tài sản chung vợ chồng là tài sản của bạn và vẫn được pháp luật bảo vệ).
  • Xem thêm     

    12/12/2011, 09:46:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn vanthanh_1402!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           Theo các thông tin mà bạn nêu ra thì có hai giao dịch cần phải làm rõ đối với diện tích 200m2 đất của mẹ bạn:
             - Giao dịch năm 2005 giữa mẹ bạn với bà A: Giao dịch này không tuân thủ về hình thức và chưa sang tên nhưng giao dịch này cả hai bên đều thừa nhận là có thực và đã thực hiện trên thực tế 6 năm nay. Do vậy gia đình bạn phải có trách nhiệm đối với giao dịch này.
             - Giao dịch thứ hai năm 2011: Theo thông tin bạn nêu thì mẹ bạn ký hợp đồng (tặng cho?) để sang tên cho Trường là không tự nguyện (bị lừa ký). Tuy nhiên mẹ bạn phải có nghĩa vụ chứng minh về việc bị lừa đó. Nếu không chứng minh được thì Hợp đồng đó là hợp pháp và mẹ bạn phải bồi thường thiệt hại cho bà A theo Hợp đồng trước đây.
              Nếu Hợp đồng giữa mẹ bạn với Trường là hợp đồng chuyển nhượng thì mẹ bạn cần chứng minh là  Trường chưa thanh toán tiền chuyển nhượng cho mẹ bạn để yêu cầu hủy hợp đồng và đòi lại đất. Còn nếu  đó là hợp đồng tặng cho QSD đất thì khó mà mẹ bạn có thể hủy được hợp đồng đó.
             Việc chứng minh là mẹ bạn bị lừa ký hợp đồng rất khó khăn. Mẹ bạn chỉ có thể viện dẫn một thực tiễn là trong suốt thời gian trên bà A vẫn sử dụng thửa đất đó và Trường không sử dụng bao giờ. Tuy nhiên, tình tiết đó không phải là chứng cứ quan trọng quyết định cho việc Tòa án sẽ hủy hợp đồng giữa mẹ bạn với Trường.
            Trong vụ việc này mẹ bạn rất yếu lý nên phải thận trọng trong quá trình tố tụng để tìm ra những sơ hở của Trường và thu thập các chứng cứ khách quan để bảo vệ quyền lợi cho mình. Nếu có điều kiện thì nên mời Luật sư tham gia thì mới mong có kết quả tốt.
  • Xem thêm     

    12/12/2011, 09:18:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào anh!
            Anh nên làm như vậy. Tòa án dân sự sẽ giải quyết vấn đề xâm phạm quyền sở hữu và bồi thường thiệt hại, còn trách nhiệm của  thanh tra xây dựng và Chủ tịch UBND các cấp là phải xử lý vấn đề xây dựng trái phép. Nếu UBND không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ của mình thì sẽ bị xử lý theo pháp luật. Anh cũng có thể mời "các bác" ấy ra Tòa hành chính xem các bác ấy giải thích với Tòa án thế nào đối với việc quản lý trật tự xây dựng đô thị trên địa bàn mình? (Công trình đã bị đình chỉ mà chủ đầu tư vẫn vi phạm, tại sao không tiến hành cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm theo quy định của pháp luật?).
           Anh cũng lưu ý là nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức Nhà nước mà gây thiệt hại đến tài sản của công dân thì ngoài việc bị xử lý theo pháp luật, họ còn phải bồi thường thiệt hại cho "dân" theo Luật bồi thường Nhà nước hiện hành.
  • Xem thêm     

    12/12/2011, 08:57:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Đối với những người trong nước thì lập hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền tại phòng công chứng. Còn đối với người ở nước ngoài thì có thể làm giấy ủy quyền tại Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài rồi gửi về nước để người ở trong nước thực hiện nội dung ủy quyền. Trong giấy ủy quyền chỉ cần bên ủy quyền ký, còn nếu lập hợp đồng ủy quyền thì phải có chữ ký của hai bên.
  • Xem thêm     

    12/12/2011, 08:38:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn phavaphu!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Để làm rõ là ai lấn đất của ai thì phải xem lại giấy tờ sở hữu của hai bên (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hồ sơ địa chính) so với diện tích đất mà hai gia đình sử dụng thực tế trên thực địa. Nếu diện tích đất mà gia đình bạn sử dụng lớn hơn đất có trong giấy tờ về quyền sử dụng đất, đồng thời gia đình hàng xóm thiếu đất thì có thể gia đình bạn phải trả lại đất cho người ta.
             Bạn lưu ý là căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của bạn là giấy cho đất năm 1996. Do vậy trong giấy đó ghi diện tích bao nhiêu thì bạn chỉ được sử dụng từng đó; Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của hàng xóm là Hợp đồng chuyển nhượng năm 2006. nên họ được sử dụng điện tích đất theo hợp đồng đó Việc xác minh rang giới đất khi chuyển nhượng không phải là thủ tục bắt buộc.
             2. Nếu gia đình bạn phá cây của gia đình hàng xóm thì gia đình bạn phải bồi thường. Việc gia đình bạn có phải rút lại cọc ranh hay không sẽ căn cứ vào kết quả điều tra, xác minh sự việc.
  • Xem thêm     

    12/12/2011, 08:07:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Chưa thấy căn cứ để đòi đất
            
    Theo nội dung bạn trình bày thì gia đình bạn có sử dụng diện tích đất đó khoảng 7 năm do khai hoang, sau đó không sử dụng nữa. Gia đình bạn không có giấy tờ sở hữu gì cả (chưa được cơ quan Nhà nước nào công nhận quyền sử dụng đất, không được giao đất, cho phép sử dụng đất... thậm chí có thể chưa bao giờ có tên trong sổ mục kê, sổ dã ngoại...), Việc gia đình bạn CHO MƯỢN đất chỉ có một nhân chứng duy nhất nhưng đã chết... Do vậy, Luật sư chưa thấy căn cứ pháp lý nào để  gia đình bạn có thể đòi lại được đất.
             2. Điều kiện để đòi đất
             Để đòi được thửa đất đó, gia đình bạn phải có đủ ba điều kiện sau:
    - Thửa đất đó thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bạn theo quy định pháp luật: Phải có GCN QSD đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003;
    - Thửa đất đó chưa bị quản lý theo chính sách quản lý đất đai của Nhà nước (Trưng thu, trưng dụng, xung công, quản lý đất vắng chủ, bỏ hoang, đất của địa chủ, phong kiến tư sản..).
    - Người đang quản lý thửa đất đó không thuộc trường hợp chiếm hữu ngay tình theo quy định tại Điều 258 BLHS.
            3. Các quy định pháp luật có liên quan
    Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây:
    - Luật đất đai: Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

    - Bộ Luật dân sự: Ðiều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.