Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    05/01/2012, 12:28:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Cần xem lại dự án đó và thỏa thuận mua bán căn hộ của bạn. Nếu trong dự án thể hiện nơi để xe là sử dụng chung thì chủ đầu tư không được phép "bán". Nếu nơi đậu xe đó không bị hạn chế quyền chuyển nhượng hoặc trong dự án có quy định việc chuyển nhượng nơi để xe thì việc chuyển nhượng mới được thực hiện. Nếu nơi để xe được phép chuyển nhượng thì đương nhiên bên nhận chuyển nhượng được cấp GCN QSD đất. Còn nếu việc "mua" chỗ đậu xe, về bản chất chỉ là thuê nơi để xe thì bên mua sẽ không được cấp GCN QSD đất.
    2. Vấn đề bạn hỏi cũng là vấn đề thực tế đang diễn ra ở các đô thị mới, khu chung cư và gây tranh cãi giữa các bên. Có những nơi mua chỗ đậu xe ô tô giá trên dưới 1 tỷ (cao hơn giá mua một căn hộ chung cư bình dân). Vấn đề này đã được đặt ra ở nhiều cuộc hội thảo về mua bán căn hộ chung cư và cũng đang được các cơ quan quản lý Nhà nước nghiên cứu... Có lẽ thời gian tới sẽ có những quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
  • Xem thêm     

    05/01/2012, 08:30:40 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    04/01/2012, 08:50:39 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Thông thường thì Tòa án chỉ chấp nhận mức phạt là 8% phần giá trị vi phạm. Hợp đồng thỏa thuận mức phạt trên 8% chỉ làm cho hợp đồng vô hiệu một phần (đối với điều khoản phạt vi phạm) chứ không làm cho hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Để tránh rủi ro thì đồng thời với thỏa thuận phạt hợp đồng với mức 8%, các bên có thể thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây ra thiệt hại.
  • Xem thêm     

    04/01/2012, 08:24:39 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường đã trả lời câu hỏi của bạn.
    Ban tham khảo nội dung trả lời tại mục "bị chiếm dụng đất theo kiểu chi phèo ngày xưa"
  • Xem thêm     

    04/01/2012, 08:23:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
              1. Theo quy định của pháp luật (Từ Thông tư số 81/1981/TT-TANDTC đến bộ luật dân sự 1995, 2005) thì con đẻ, con nuôi, con trong gia thú, con ngoài giá thú đều có quyền thừa kế như nhau. Trong vụ việc của bạn con bà cả và con bà hai đều là con đẻ của ông bạn nên đều có quyền thừa kế như nhau.
              2. Các con của ông bạn đều có quyền thừa kế như nhau. Tuy nhiên, nếu không thỏa thuận được về việc phân chia di sản thừa kế thì  các con của ông bạn chỉ có thể yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế nếu còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Theo thông tin bạn nêu trên thì ông bạn chết năm 1987 nên theo quy định của pháp luật (Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao) đến ngày 10/3/2003 là hết thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản là nhà ở của ông bạn. Do vậy, nếu có tranh chấp về thừa kế, thì Tòa án cũng không giải quyết.
            3. Theo quy định của pháp luật thì những thừa kế của ông bạn đang quản lý nhà đất đó tiếp tục được quản lý sử dụng. Những người con khác đang sinh sống ở đó không còn quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế.
            4. Bạn chưa nói hai bà chết năm nào? Có còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế hay không. Nhà đất đó còn có một phần là của hai bà vợ của ông bạn (Điều 15, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định tài sản vợ chồng là tài sản chung, không quy định vợ chồng có tài sản riêng). Do vậy, nếu hai bà bạn chết chưa quá 10 năm thì các thừa kế của bà có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về thừa kế đối với phần di sản của bà bạn.
  • Xem thêm     

    04/01/2012, 08:02:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn bạn!
    Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể nêu thông tin để được luật sư giải đáp.
    Chúc bạn thành công.
  • Xem thêm     

    04/01/2012, 01:03:01 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
              1. Gia đình bạn đã có Giấy chứng nhận đối với nhà đất đó và chưa định đoạt tài sản đó theo quy định của pháp luật thì nhà đất vẫn là tài sản của gia đình bạn và được pháp luật bảo vệ.
              2. Hành vi chiếm dụng nhà, xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp sẽ bị xử lý theo pháp luật: bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 124 BLHS, cụ thể như sau:
               "Điều 124. Tội xâm phạm chỗ ở của công dân
    1. Người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
    c) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.".
              Do vậy, bạn cần trình bày toàn bộ sự việc để công an xử lý theo pháp luật. Nên có dấu hiệu tội phạm mà công an vẫn không khởi tố để xử lý hình sự thì bạn có quyền khiếu nại theo thủ tục khiếu nại tố cáo.
              3. Nếu bạn không thể thực hiện được việc đòi nhà thì có thể ủy quyền cho Luật sư xử lý theo pháp luật. Bạn cần liên hệ trực tiếp với Luật sư để đưa ra yêu cầu và thống nhất mức thù lao cụ thể.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    03/01/2012, 08:08:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
          1. Để đòi được thửa đất đó bạn phải chứng minh là nguồn gốc sử dụng đất của bạn là hợp pháp: Nguồn gốc đất thế nào? Bạn còn giữ biên lai đóng thuế sử dụng đất hay không? Từ năm 1994 đến nay thì gia đình bạn không đóng thuế sử dụng đất? Trong hồ sơ địa chính của chính quyền địa phương có tên của bạn không? ....
         Bạn chỉ có thể đòi lại được phần đất đó nếu bạn có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003,. Ngược lại, nếu bạn không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai mà người ba con của bạn có một trong các loại giấy tờ đó thì bạn sẽ không thể đòi lại được thửa đất đó. Cụ thể  Điều 50 Luật đất đai quy định như sau: “
    Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

                b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
            2. Nếu UBND cấp GCN QSD đất cho người đó không đúng pháp luật thì bạn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định pháp luật. Việc người đó đã được cấp GCN QSD hay chưa không quan trọng. Quan trọng là nguồn gốc sử dụng đất có căn cứ theo quy định của pháp luật xác định thửa đất đó là của bạn hay không. Nếu có căn cứ xác định là thửa đất đó là của bạn thì dù người kia có được cấp GCN thì khi giải quyết tranh chấp, Tòa án sẽ xác định quyền sử dụng đất là của bạn và Tòa án sẽ kiến nghị với UBND hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp trái pháp luật đó.Tòa án có quyền phán quyết những quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước....
           3. Thủ tục đòi đất:
    - Bạn gửi đơn đề nghị hòa giải tới UBND cấp xã nơi có thửa đất đó để được hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai. Trong thời hạn 30 ngày, UBND sẽ phối hợp với các thành viên của Mặt trận tố quốc để hòa giải tranh chấp đất đai;
    - Nếu UBND hòa giải không thành thì bạn có thể gửi đơn đến Tòa án (nếu thửa đất đã có GCN QSD đất hoặc các giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai) hoặc UBND cấp huyện để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
             Nếu bạn cần tư vấn thêm, hãy cung cấp thêm thông tin và câu hỏi để được Luật sư tư vấn "miễn phí"!

    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    03/01/2012, 01:09:54 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn: Nếu Tòa án triệu tập anh rể bạn mà anh rể bạn không đến thì Tòa án sẽ đến nơi cư trú, phối hợp với chính quyền địa phương để lấy lời khai. Nếu anh đó cố tình trốn tránh thì Tòa án sẽ giải quyết vắng mặt anh ta theo quy định pháp luật.
             2. Việc đánh người: Nếu anh rể bạn đến nhà chị gái bạn đánh chửi, gây mất trật tự an ninh thì chị bạn có quyền  yêu cầu công an địa phương can thiệp. Nếu việc đánh chửi của anh rể bạn gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, tội làm nhục người khác hoặc tội cố ý gây thương tích...
  • Xem thêm     

    03/01/2012, 01:01:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
    Cảm ơn! Chúc bạn nhiều may mắn!
  • Xem thêm     

    03/01/2012, 01:00:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Việt Nam có kinh doanh dịch vụ đánh bạc là Casino Đồ Sơn, đối tượng tham gia là người nước ngoài.
  • Xem thêm     

    02/01/2012, 06:46:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1.
    CHO VAY NẶNG LÃI
              Khoản 1, Điều 476 Bộ luật Dân sự, năm 2005 quy định: " Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng"(.
              Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự thì  nếu lãi suất cho vay vượt quá 150%  lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng thì là "cho vay nặng lãi". Mức lãi suất 5000/1trd/ngày là nặng lãi.
              Hậu quả pháp lý: Khi có tranh chấp
    xảy ra thì Nhà nước không bảo vệ quyền lợi cho bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
    2. TỘI CHO VAY NẶNG LÃI
              Điều 163 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:

    "1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị; phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

    2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm
    ."

              Như vậy, việc cho vay nặng lãi chỉ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 163 BLHS khi thỏa mãn cả hai điều kiện sau đây:

    Cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên (ví dụ: Lãi suất cho vay của Nhà nước là 18%/ năm thì mức nặng lãi có thể bị xử lý hình sự là 180% năm);

    -  Có tính chất chuyên bóc lột (thành nghề cho vay nặng lãi..).

              Thực tế ở nước ta rất khó bị xử lý về tội cho vay nặng lãi bởi việc chứng minh tội phạm  này không đơn giản... Hiện nay, các tiệp cầm đồ thường cho vay với mức lãi suất cao như mức lãi suất bạn nêu nhưng  thực tế chưa có ai bị xử lý  hình sự vì thiếu quy định pháp luật cụ thể về đối tượng này.

  • Xem thêm     

    02/01/2012, 06:19:50 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Thửa đất đó chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà cô của bố bạn không thể thực hiện được thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (theo quy định tại Điều 66, Nghị định số 84/2007 thì từ ngày 01/01/2008 bắt buộc phải có GCN QSD đất thì mới được phép chuyển nhượng).
                 2. Thửa đất đó có nguồn gốc là do cha ông để lại, đã có 3, 4 đời sống trên thửa đất đó nên việc xác định chủ sử dụng đất không hề "đơn giản"!
    - Bạn cần xem lại hồ sơ địa chính xem có tên của ai trên thửa đất đó.
    - Có thể trên bản đồ địa chính và Sổ mục kê từ trước tới nay đã tách thành hai thửa và có tên của ông nội bạn và bà em ông nội bạn (mỗi người một thửa) chứ không có tên của cụ cố. Do vậy, phần đất của ông nội bạn sử dụng sẽ thuộc về ông nội bạn, phần đất do bà cô sử dụng sẽ thuộc về bà cô đó.
    - Nếu trên cả hai phần đất đó trước đây có tên của cụ cố trong hồ sơ địa chính thì đến nay cũng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế của các cố nên ai sử dụng được tiếp tục sử dụng.
    - Phần diện tích nhà đất mà ông bạn sử dụng là tài sản chung vợ chồng của ông nội bạn và bà nội bạn.
     + Nay ông nội bạn đã chết, không để lại di chúc thì phần đất do ông nội bạn sử dụng thuộc về các thừa kế của ông nội bạn trong đó có ba bạn. Nếu ông bạn chết đã quá 10 năm thì phần di sản của ông bạn sẽ do ba bạn quản lý.
     + Bạn chưa thấy nhắc gì đến bà nội bạn? Nếu bà nội bạn còn sống thì phần tài sản của bà nội bạn do bà nội bạn quyết định. Nếu bà nội bạn đã chết thì trở thành di sản của các thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
    Do vậy, bạn cần kiểm tra lại nguồn gốc đất theo hồ sơ địa chính và cung cấp thông tin để luật sư có thể tư vấn cụ thể và chính xác cho bạn.
                3. Theo quy định của Luật công chứng hiện hành thì thủ tục khai nhận di sản thừa kế đối với nhà đất chỉ  thực hiện được nếu di sản đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, phần đất đó có thỏa thuận được  việc phân chia thừa kế thì cũng không thể thực hiện được được việc khai nhận di sản thừa kế theo quy định pháp luật. Với tình trạng pháp lý của nhà đất như vậy thì các bên chỉ có thể lập biên bản thỏa thuận và xin cấp GCN QSD đất lần đầu theo quy định của pháp luật.
                Nếu các bên không thỏa thuận được về việc giải quyết tranh chấp đất đai thì gia đình bạn có thể yêu cầu UBND xã hòa giải. Nếu UBND cấp xã hòa giải không thành thì  gia đình bạn có thể gửi đơn đến UBND hoặc Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Điều 136 Luật đất đai.
                Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể cung cấp thêm thông tin để được Luật sư và các thành viên của Danluat giải đáp miễn phí!
  • Xem thêm     

    02/01/2012, 11:33:52 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            1. Nếu thực tế có con mương thì chắc chắn trong bản đồ địa chính phải thể hiện con mương đó (bản đồ được đo vẽ từ thực địa hoặc có thể sử dụng ảnh chụp từ vệ tinh để lập bản đồ).
            2. Khi tranh chấp, Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ xem xét bản đồ địa chính qua các thời kỳ để tìm hiểu nguyên nhân biến động về diện tích đất của hai gia đình. Thậm chí có thể xem xét cả diện tích của các hộ liền kề khác để tìm hiểu xem gia đình bạn thiếu đất là do nhà ai lấn chiếm...
           3. Thông thường khi cấp GCN QSD đất thì UBND sẽ căn cứ vào bản đồ địa chính gần nhất để cấp GCN. Nếu diện tích đất thực tế sử dụng lớn hơn diện tích đất trong bản đồ thì phải xác minh làm rõ việc dư diện tích là do người sử dụng đất mới lấn chiếm hay khi đo đạc bản đồ có sai sót. Phải làm rõ những nội dung đó thì UBND mới cấp GCN QSD đất.
           Trong vụ việc của gia đình bạn: Diện tích đất sử dụng thực tế và diện tích đất trong bản đồ năm 1992 là bằng nhau. GCN QSD đất của gia đình bạn có diện tích lớn hơn nhưng kể từ khi được cấp GCN QSD đất đến nay (gần 10 năm) gia đình bạn cũng không có ý kiến gì. Gia đình bạn không chỉ ra là hàng xom lấn chiếm đất nhà bạn khi nào? Tại sao khi bị lấn chiếm không có ý kiến gì? Diện tích đất nhà hàng xóm thừa ra chưa khẳng định được là họ lấn chiếm nhà bạn (có thể do lấn chiếm nhà khác hoặc lấn chiếm đất công cộng). Trong vụ việc này Luật sư chưa thấy căn cứ để gia đình bạn thắng kiện. Do vậy, gia đình bạn phải tiếp tục thu thập chứng cứ về việc lấn chiếm đất đó... thì Tòa án mới có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của gia đình bạn.
    Chúc bạn thành công! Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể nêu tiếp câu hỏi để Luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    02/01/2012, 11:12:56 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Theo thông tin mà bạn nêu trên thì hiện nay căn nhà trên đã được đăng ký đứng tên bà L do vậy cần xem lại việc chuyển dịch tài sản từ ông bạn cho bà L có hợp pháp không? Nếu giao dịch giữa ông bạn với bà L là không hợp pháp, việc bà L được cấp GCN QSD đất là không đúng pháp luật thì mẹ bạn mới có cơ hội được hưởng thừa kế đối với di sản do ông ngoại bạn để lại (không có di chúc). Bạn cũng lưu ý là mẹ bạn chỉ có thể khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với ông bạn nếu mẹ bạn có chứng cứ chứng minh quan hệ huyết thống đối với ông bạn và ông bạn chết chưa hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (chết chưa quá 10 năm);
                2. Nếu căn nhà đó vẫn đứng tên ông bạn và ông bạn chết chưa quá 10 năm và không để lại di chúc thì mẹ bạn mới có cơ hội được chia thừa kế.
               3. Bà L chết không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản của bà L sẽ thuộc về các hàng thừa kế của bà L theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005, cụ thể như sau:

    "Người thừa kế theo pháp luật 

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

            Nếu bà L không còn hàng thừa kế nào thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước.
  • Xem thêm     

    01/01/2012, 09:13:21 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Nếu sau khi phát lệnh truy nã mà công an có nguồn tin là người đó đã vượt biên sang Lào thì Công an VN sẽ phối hợp với Công an Lào để bắt và dẫn độ về VN để xử lý. Công an VN chỉ có thể hợp tác với police các quốc gia khác nếu có hiệp ước hỗ trợ tư pháp giữa VN với quốc gia đó... Nói chung, sau khi phát lệnh truy nã, công an VN có phối hợp với các cơ quan an ninh của các quốc gia hay không phụ thuộc vào tin tức tội phạm và các hiệp ước hỗ trợ tư pháp giữa VN và quốc gia đó.
  • Xem thêm     

    31/12/2011, 07:46:44 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nhà nước VN chỉ có quyền quy định cấm nhập cảnh vào VN chứ không thể quy định công dân nước ngoài cấm nhập cảnh đối với quốc gia khác (trừ trường hợp có điều ước quốc tế thỏa thuận giữa hai nước). Trong trường hợp của bạn thì Công an chỉ có thể lệnh cấm xuất cảnh khỏi VN đối với người có lệnh truy nã chứ không cấm nhập cảnh.
  • Xem thêm     

    31/12/2011, 07:39:53 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn bạn!
  • Xem thêm     

    31/12/2011, 07:39:18 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            1. Để xác định gia đình hàng xóm lấn của gia đình bạn hay không thì phải căn cứ vào bản đồ địa chính qua các thời kỳ. Trong bản đồ sẽ thể hiện diện tích, kích thước con mương đó. Căn cứ vào số đo trong bản đồ và tỷ lệ của bản đồ để xác định kích thước thực tế của con mương trước khi bị lấn.
            2. Bạn nói: "phần đất dư ra này nằm phía bên kia đất của họ chứ không nằm giữa ranh 2 nhà" là thế nào? Nếu người ta lấn đất nhà bạn thì phải lấn qua mốc giới giữa hai nhà chứ sao lại lấn, thừa ở phía bên kia? Điều đó chứng tỏ nhà đó lấn mương chứ không phải lấn đất nhà bạn.
           3. Nếu nhà họ lấn đất nhà bạn thì họ phải trả lại. Còn nếu họ lấn đất công cộng, nay phần diện tích lấn chiếm đó phù hợp với quy hoạch thì vẫn được công nhận quyền sử dụng đất. Nếu phần diện tích lấn chiếm đất công đó là lấn chiếm sau 15/10/1993 và nay vẫn không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì sẽ bị Nhà nước thu hồi.
           4. Căn cứ khởi kiện đòi đất của gia đình bạn là GCN QSD đất. Tuy nhiên, GCN QSD đất đó phải được cấp đúng pháp luật thì gia đình bạn mới có cơ hội thắng kiện. Nếu bản đồ địa chính năm 1992 thể kích thước mặt tiền thửa đất nhà bạn là 23m mà GCN cấp là 27m thì phải xem xét lý do tại sao khi cấp GCN lại có kích thước lớn hơn trong hồ sơ địa chính? Nếu không làm rõ được kích thước tăng thêm so với hồ sơ địa chính thì GCN  QSD đất của gia đình bạn cấp sai và sẽ bị chỉnh lý.
             Theo thông tin mà bạn nêu ra thì rất có thể gia đình hàng xóm lấn đất mương chứ không phải lấn đất nhà bạn. Việc gia đình bạn được cấp GCN QSD đất có kích thước mặt tiền lớn hơn kích thước, diện tích trong hồ sơ địa chính có thể là do sai sót khi cấp GCN. Do vậy, trong vụ việc này nhiều khả năng gia đình bạn sẽ thua kiện.
  • Xem thêm     

    31/12/2011, 08:26:37 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Nếu có một giấy vay 500trđ là có căn cứ để xử lý rồi. Sau khi nhận được đơn tố giác, kèm theo giấy vay nợ, công an sẽ có giấy gọi người vay đến trụ sở để làm việc. Nếu người đó đã trốn khỏi địa phương thì công an sẽ đến nhà và làm việc với công an khu vực để xác minh sự việc. Khi có căn cứ là người đó bỏ trốn để chiếm đoạt 500 trđ trên thì công an sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và phát lệnh truy nã. Trước hết xử lý đối với khoản tiền 500 trđ, sau này có thêm căn cứ về các khoản tiền khác thì sẽ khởi tố bổ sung đối với các khoản tiền đó.
            Chỉ với số tiền 500 tr , nếu người đó phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người đó sẽ bị mức án theo khoản 4, Điều 139 BLHS là 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Còn nếu người đó phạm tội  lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với số tiền 500 trđ thì theo khoản 4 Điều 140 BLHS mức án sẽ là 20 năm tù hoặc tù chung thân. Mức án như vậy là đủ sức dăn đe và tạo áp lực cần thiết để bạn lấy lại tài sản của mình. Nếu họ tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả thì họ sẽ được giảm án.
            Như vậy, vụ việc của bạn là có căn cứ để xử lý hình sự. Trước hết xử lý với khoản nợ có giấy vay. Sau khi bắt được đối tượng thì bằng những biện pháp nghiệp vụ,công an sẽ buộc họ phải khai nhận các khoản vay khác. Trong vụ việc này bạn nên mời luật sư tham gia để bảo vệ quyền lợi cho bạn, tránh bị các cơ quan tố tụng "hành, vòi..", sớm đòi được số tiền của mình và trừng trị người có tội.
             Chúc bạn thành công!