trích
#0066cc; font-size: 16px;" id="T3_chLeft_DP69_PM69_lblHeadline">Loại bỏ hay duy trì hình phạt tử hình 1:29' 2/9/2009
Hình phạt tử hình được áp dụng trong luật từ rất xa xưa. Chúng ta có thể tìm thấy tử hình được quy định trong Bộ luật Hâm-mu-ra-bi (Hammurabi) của Ba-by-lông (Babylon, khoảng 1750 TrCN). Từ sau Đế chế La Mã sụp đổ đánh dấu cho sự bắt đầu của thời kỳ hiện đại, tử hình được áp dụng phổ biến ở toàn Châu âu và các nước khác trên thế giới. Trong suốt quá trình lịch sử tồn tại lâu dài, hình phạt tử hình đã thể hiện bản chất của mình là một loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, mang lại hiệu quả cao nhất trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ thứ 18, một số chính trị gia đã lên tiếng phản đối việc áp dụng hình phạt này. Tiêu biểu cho trào lưu đó chúng ta có thể kể đến Mông-tét-xki-ơ (Montesquieu, Pháp), Béc-ca- ri-ơ (Beccaria, Ý), Vôn-te-ơ (Voltaire, Anh), Ji-rê-mi Ben-tham (Jeremy Bentham, Anh). Hưởng ứng trào lưu này, một số quốc gia đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi Bộ luật Hình sự của mình như Vê-nê-zi-la (Venezuela, 1863), Săn Ma-ri-nô (San Marino, 1865), Cót-xta Ri-ca (Costa Rica, 1877). Hiện nay, một số quốc gia, đặc biệt là ở Châu âu, không còn áp dụng hình phạt tử hình nữa hoặc chỉ giữ lại đối với các tội phạm phản bội tổ quốc và tội phạm chiến tranh. Các học giả, đa số là các học giả Mỹ, kịch liệt lên án việc duy trì hình phạt tử hình. Họ lý luận rằng việc áp dụng án tử hình là vô nhân đạo, vi phạm nhân quyền và nhiều lúc giết oan người vô tội. Cơ bản, họ phủ nhận tác dụng ngăn ngừa tội phạm của hình phạt tử hình. Hiện nay, Luật Hình sự Việt Nam (cũng như Luật Hình sự của nhiều nước trên thế giới) vẫn duy trì hình phạt tử hình, như thế có bị xem là bất cập? Theo tôi, việc giữ lại hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt là có cơ sở và rất cần thiết, góp phần thực hiện nhiệm vụ của Luật Hình sự là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Cơ sở căn bản đầu tiên mà những người theo trường phái chống đối việc áp dụng hình phạt tử hình là vì nó không có tác dụng ngăn ngừa tội phạm. Theo họ, án tù chung thân cũng có tác dụng ngăn ngừa tội phạm không kém. Đây là một kết luận thiếu cơ sở. Tác dụng phòng ngừa của hình phạt được xác định ở hai phương diện: phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Phòng ngừa riêng thể hiện ở chỗ hình phạt dạy cho người phạm tội một bài học đừng lặp lại hành vi phạm tội. Đồng thời, hình phạt cũng nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật. Đối với phòng ngừa chung, hình phạt tác động khiến người khác (không phải người phạm tội) sợ phải gánh chịu hậu quả tương tự như người phạm tội, và do đó ngăn ngừa họ phạm tội. Trong trường hợp áp dụng hình phạt tử hình, dù tác dụng phòng ngừa riêng bị triệt tiêu một phần (phòng ngừa riêng vẫn còn một phần thể hiện ở chỗ loại bỏ khỏi xã hội một chủ thể nguy hiểm) nhưng tác dụng phòng ngừa chung vẫn còn nguyên vẹn. Đối với một số cá nhân thực hiện các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và theo đánh giá thì sự tồn tại của cá nhân đó trong đời sống xã hội là cực kỳ nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng của nhiều thành viên khác trong cộng đồng thì việc áp dụng hình phạt tử hình đối với cá nhân đó là cần thiết. Khi đó, dù người phạm tội không còn nhưng đó sẽ là một bài học vô cùng quý giá giúp những người khác tránh xa mọi ý định cũng như thực hiện hành vi phạm tội. Không ai không sợ chết. Nhân gian thường có câu: còn sống là còn tất cả, chết là hết. Vì thế, hiệu quả phòng ngừa tội phạm của hình phạt tử hình là có thật. Ngoài ra, đánh giá mức độ tác động của hình phạt trong việc phòng ngừa tội phạm, Britannica, một học giả nổi tiếng về tội phạm và hình phạt, trong tác phẩm “Tội phạm và Hình phạt” đã khẳng định: hình phạt càng nghiêm khắc thì hiệu quả phòng ngừa càng cao, đặc biệt đối với hình phạt tử hình. Chính vì thế, không thể thiếu căn cứ khi khẳng định hình phạt tử hình có tác dụng như hình phạt tù chung thân. Hơn nữa, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong xử lý hình sự không thể chấp nhận một người phạm tội trong trường hợp đáng nhận án tử hình lại được hưởng án tù chung thân. Khi đó, nguyên tắc công bằng cũng bị phá vỡ.
Các học giả ủng hộ việc bỏ hình phạt tử hình dựa trên những nghiên cứu của mình cũng kết luận rằng không có mối quan hệ nhân quả giữa hình phạt tử hình và sự giảm tỷ lệ tội phạm. Điều này sai. Trong bài viết của mình, Mắc-ma-nết (Walter S. McManus) nói: “Việc kết luận tử hình có tác dụng ngăn chặn hay không tùy thuộc vào ý kiến chủ quan của người nghiên cứu. Nếu anh ủng hộ việc bỏ hình phạt tử hình thì kết quả nghiên cứu của anh sẽ theo hướng đó.” Vấn đề này đòi hỏi chúng ta cần thiết xem xét lại phương pháp nghiên cứu các công trình nghiên cứu có khuynh hướng chống hình phạt tử hình. Một bài báo viết về việc chống đối áp dụng tử hình của các nhà kinh tế ở Mỹ đã khẳng định, tử hình không có tác dụng ngăn ngừa tội phạm. Tuy nhiên, phương pháp phân tích của tác giả chủ yếu dựa vào quan điểm của những người chống hình phạt tử hình thay vì dựa vào ý kiến chung của công chúng. Vì thế, kết luận này không thể có tính thuyết phục. Bi-du (Hugo Adam Bedau) cũng kết luận rằng tử hình không có khả năng tạo ra tác dụng phòng ngừa tội phạm. Không khác các học giả chống hình phạt tử hình, Bedau đã không tách ra giữa sự tác động của việc áp dụng hình phạt tử hình và các yếu tố khác để nghiên cứu, đánh giá. Bởi vì, tỷ lệ tội phạm trên thực tế không chỉ bị ảnh hưởng bởi hình phạt mà còn chịu sự tác động của yếu tố khác như dân số, kinh tế, địa lý...v.v...Cho nên, kết luận này cũng không thể xem là chính xác được. Bai-ly (William C. Bailey) lại khẳng định việc phát sóng truyền hình các buổi thi hành án tử hình không tác động đến tỷ lệ tội phạm giết người. Nghiên cứu của Bailey chỉ đánh giá trong một khoản thời gian ngắn nên kết quả không thể tin cậy được. Trong khi đó, Phi-lípx (David Phillips), giáo sư trường Đại học Ca-li-fox-ni-a (California) đã nghiên cứu việc trực tiếp truyền hình các buổi thi hành án tử hình trong thời gian dài và kết luận trong thời gian đó, tỷ lệ tội phạm giết người giảm đi đáng kể.
Những nghiên cứu của các nhà tội phạm học có tâm huyết trên thế giới đều công nhận tác dụng ngăn ngừa tội phạm của án tử hình. Năm 1975, E-ơ-lít (Isaac Ehrlich) đã chứng minh thành công nhận định tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm. Anh ta đã sử dụng phương pháp nghiên cứu trong kinh tế để phân tích. Khi tỷ lệ bắt, kết án và thi hành án tử hình gia tăng thì tỷ lệ tội phạm, đặc biệt là giết người giảm xuống. Ehrlich đã phân tích số liệu lấy từ Mỹ, Canada, Anh, và Wales và thấy rằng kết quả không có gì mâu thuẫn. Kết quả nghiên cứu của Ehrlich lập tức bị phản ứng mạnh mẽ. Năm 1985, Lây-sân (Stephen Layson), giáo sư trường Đại học Bắc Ca-rô-li-na (Carolina), đã lên tiếng xác nhận kết quả nghiên cứu của Ehrlich. Đồng thời, Layson còn đưa ra nhiều chứng cứ thuyết phục cho lời xác nhận của mình. Rít-chết (Richard) cũng đồng ý với Layson. Anh ta công nhận có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa con số án tử hình được thi hành và tỷ lệ tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có thể áp dụng án tử hình. Vì sao anh ta không dùng khái niệm “con số án tử hình được áp dụng” thay vì “án tử hình được thi hành”? Rất nhiều trường hợp án tử hình đưüơc tuyên nhưng không bao giờ được thi hành. Khi đó, hình phạt tử hình không thể phát huy tác dụng. Richard đã khảo sát một số bang của Mỹ (được chọn làm mẫu) để minh chứng cho nhận định của mình. Trong 14 năm, Plo-ri-đa (Florida) có 37 trường hợp tử hình, tỷ lệ tội phạm giảm 40,2%; cùng thời gian này ở Té- xát (Texas) có 84 trường hợp tử hình, giảm 46,1%; tương tự ở Zdê-ô-gi-a (Georgia) có 12 trường hợp tử hình, giảm 44,4% tội giết người; ở Nê-va-da (Nevada) trong 17 năm thi hành 6 án tử hình, giảm 39,1% tội giết người. Ngược lại, ở các bang không áp dụng án tử hình, cùng thời gian đó, tỷ lệ tội phạm tăng cao thay vì giảm, chẳng hạn, Vơ-mân (Vermont) tăng 57% tội giết người. Một nguồn chứng cứ khác cũng ủng hộ nhận định trên, như ở Hao-xtân (Houston), bang Texas, năm 1981, là bang có tỷ lệ tội giết người cao nhất (701 trường hợp, cao hơn toàn bang Bắc Carolina). Tuy nhiên, năm 1982, Houston đã phê chuẩn việc áp dụng án tử hình. Tỷ lệ tội giết người giảm còn 261 trường hợp ở năm 1996 (giảm 63%). Ở Anh, vào những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 20 được biết đến là nước áp dụng án tử hình cao nhất, cao hơn cả Mỹ. Khi đó, tỷ lệ tội giết người ở Anh rất thấp (thấp hơn bất cứ một bang nào ở Mỹ). Từ khi Anh bỏ hình phạt tử hình, tỷ lệ này tăng lên gấp đôi và cứ thế tăng theo thời gian. Ở Úïc, giai đoạn 1964-1973, là quốc gia thi hành án tử hình nhiều nhất trên thế giới. Khi đó, tỷ lệ tội giết người đạt thấp nhất thế giới. Rất tiếc, chưa có con số chính xác nào về vấn đề này ở Việt Nam để minh họa. Dù sao, với ngần ấy chứng cứ đã cho phép chúng ta khẳng định tác dụng ngăn ngừa tội phạm của hình phạt tử hình là không thể chối cãi.
Ngoài ra, các học giả theo trường phái ủng hộ việc bỏ hình phạt tử hình còn lý luận rằng duy trì hình phạt này là vi phạm nhân quyền. Bởi vì, Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hiệp quốc có khẳng định “mọi người đều có quyền được sống”. Tôi không đồng ý với lý lẽ này. Lý luận về vấn đề “tự do và ý chí” trong Triết học Mác-Lênin chỉ ra rằng, mọi người sống trong xã hội đều có quyền tự do trong hành vi của mình. Để quyền tự do của anh được đảm bảo thì trong ý chí của anh khi thực hiện hành vi phải không được vi phạm quyền tự do của người khác. Anh có quyền tự do lựa chọn hành vi của mình sao cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã được thể chế thành luật. Khi đó, hành vi của anh không bị xem là vi phạm tự do của người khác. Nếu anh vi phạm điều đó, đồng nghĩa với anh tự vứt bỏ quyền tự do của mình. Suy cho cùng, một người khi đã thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức người đó đã đem quyền sống của mình ra đánh đổi vì anh ta nhận thức được rằng, hành vi của mình đã tước đi bao nhiêu mạng sống của đồng loại. Vì thế, trong trường hợp này, không ai vi phạm quyền sống của bị cáo mà chính bị cáo đã tự khước từ quyền được sống của mình. Tước đi quyền sống của một con người, không ai trong chúng ta hay bất cứ một chính phủ nào mong muốn. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn dân đứng lên trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thật lạ lùng nếu chúng ta bảo rằng do Bác Hồ thích giết người hay thích thú nhìn đồng bào mình bị giết. Bác Hồ kính yêu của chúng ta không bao giờ nghĩ thế nhưng Bác hiểu rằng chiến tranh cách mạng là biện pháp duy nhất để tự do có thể tồn tại. Thừa nhận hình phạt tử hình là biện pháp để bảo vệ quyền được sống chứ không phải vi phạm quyền sống của con người.
Nhóm người ủng hộ quan điểm loại bỏ hình phạt tử hình nghi ngờ rằng liệu việc duy trì việc áp dụng hình phạt chết người này có thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo hay không. Bởi vì, một khi tử hình được áp dụng, cá nhân người phạm tội sẽ bị tước sự sống vĩnh viễn. Họ không còn có cơ hội để ăn năn hối cải. Để có quan điểm đúng đắn về vấn đề này, chúng ta lật lại các tập hồ sơ của các vụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án V (vụ án có tính chất tham nhũng, lừa đảo...) gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước khoảng 4000 tỷ đồng; vụ án X (buôn lậu ma túy xuyên quốc gia), bị cáo mang hàng chục kilogram hêrôin qua biên giới; vụ án Y, bị cáo dùng dao giết chết vợ con trong đêm khuya rồi chặt ra từng khúc ném vào cống thoát nước; vụ án Z, bị cáo dụ dỗ một bé gái
12 tuổi ra sau vườn, hiếp dâm và sau đó giết đi, ném xác xuống ao bèo. Và còn biết bao nhiêu vụ án khác nữa mà bất cứ ai trong chúng ta khi mới nghe qua cũng hết sức phẫn nộ và không thể tưởng tượng được tại sao bị cáo có thể thực hiện được những hành vi phạm tội mất hết nhân tính như thế. Trong khi thực hiện hành vi phạm tội, thử hỏi bị cáo có nghĩ rằng mình đang thực hiện một hành vi hết sức vô nhân đạo? Dĩ nhiên, luật hình sự trong thời đại ngày nay không xem hình phạt là sự trừng trị ngang bằng (với hành vi phạm tội) như pháp luật thời Trung cổ là giết người phải đền mạng, nói dối phải bị cắt lưỡi, trộm cắp phải bị chặt tay...Tuy nhiên, xét ở góc độ nào đó ứng với luật nhân quả, ai gieo hạt nào sẽ được quả đó. Đó là chúng ta chưa kể, nếu bị cáo tiếp tục tồn tại trong xã hội sẽ là sự đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của biết bao người vô tội khác. Có thể tính được con số này khi khảo sát các nước trước kia áp dụng hình phạt tử hình nhưng nay đã bỏ và ngược lại. Chẳng hạn, ở Anh, tử hình một tử tội trung bình sẽ cứu được 75 nạn nhân thoát chết trực tiếp dưới tay hắn. Con số trung bình là nạn nhân gián tiếp chết dưới tay một tử tội chưa thể xác định được. Cho nên, không thể xem việc áp dụng hình phạt tử hình là vô nhân đạo.
Có trường hợp người bị chết oan vì bị kết án tử hình sai? Công bằng mà nói, con người có lúc cũng sai lầm. Vì thế, không thể tránh khỏi có những bản án tử hình thiếu chính xác. Nét đặc biệt ở đây là một phán quyết tử hình khi được thi hành sẽ không còn cơ hội sửa chữa vì nạn nhân đã chết. Luật Hình sự khi quy định về tử hình đã đưa ra những điều kiện hết sức cụ thể, chặt chẽ tránh việc áp dụng loại hình phạt này một cách tùy tiện, thiếu chính xác. Đồng thời, Luật còn quy định những thủ tục đặc biệt chỉ áp dụng đối với bản án tử hình nhằm khắc phục sai lầm nếu có xảy ra. Chẳng hạn, theo Luật Hình sự Việt Nam, tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không được áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai khi phạm tội hoặc khi bị xét xử, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử (Điều 35 Bộ Luật Hình sự). Bên cạnh đó, Luật Tố tụng Hình sự cũng quy định sau khi bản án tử hình đã có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, bản sao bản án phải được gửi ngay cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn 2 tháng kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải ra quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thời hạn 7 ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình có quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Bản án tử hình chỉ được thi hành khi trong thời hạn luật định mà không có kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ tịch nước (Điều 228 Bộ Luật Tố tụng Hình sự). Với những thủ tục chặt chẽ theo hướng có lợi như thế, khả năng người bị kết án bị chết oan là rất hiếm hoi. Thực tế ở Việt nam từ xưa đến nay, chưa thấy có trường hợp nào giết oan một người vô tội.
Hiện nay, Châu á và Châu phi được xác định là có nhiều quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Thậm chí, có quốc gia còn có xu hướng áp dụng hình phạt tử hình rất thường xuyên như Trung Quốc. Theo số liệu thống kê, trong năm 1990, con số người phạm tội bị kết án tử hình và bị thi hành án tử hình ở Trung Quốc cao hơn của tất cả các nước trên thế giới cộng lại.Ở Phi-líp-pin (Philippines), sau mấy mươi năm không áp dụng hình phạt tử hình, năm 1993, Quốc hội đã quyết định thông qua việc đưa hình phạt tử hình trở lại Bộ Luật Hình sự. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phi-lip-pin đã phát biểu: “...chúng ta xem hình phạt tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm hay không!”. Hai quốc gia khác ở Châu á cũng giống Phi-lip-pin, phục hồi lại hình phạt tử hình sau một thời gian tuyên bố bỏ là Nê-pan (Nepal) và Pa-pua Niu-Dzui-ni-a (Papua New Guinea).
Căn cứ vào tình hình thực tế của nước ta, việc giữ lại hình phạt tử hình là có cơ sở. Lịch sử đất nước đã trải qua bao cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm mới giành được độc lập, tự do cho dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn luôn tìm mọi âm mưu chống phá những thành quả mà cách mạng mang lại. Nhà nước và nhân dân ta phải đấu tranh không ngừng. Trong cuộc đấu tranh mới này, pháp luật hình sự được xem là công cụ sắc bén, hữu hiệu nhất. Hiện nay, đất nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách mở cửa giao lưu quốc tế. Bên cạnh những thành quả mà chúng ta đạt được là những hạn chế tất yếu. Một số tội phạm vốn dĩ đã nguy hiểm, nay có điều kiện càng nâng cao tính nguy hiểm, gây nguy hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, chẳng hạn nhóm tội phạm về tham nhũng, buôn lậu ma túy, xâm phạm tình dục trẻ em...v.v...Để đấu tranh phòng ngừa và chống hữu hiệu các loại tội phạm này, cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Mặt khác, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế. Việc áp dụng một hình phạt không tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ không có tính răn đe cao. Khi đó, hình phạt chẳng những không phát huy hết tác dụng mà đôi khi còn có tác dụng ngược lại. Rút kinh nghiệm ở một số nước, đặc biệt là các quốc gia ở Châu á, hưởng ứng phong trào xóa bỏ hình phạt tử hình, Quốc hội của họ cũng đưa vấn đề này ra thảo luận nhưng cuối cùng không thể thông qua được. Thậm chí, có quốc gia đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi Bộ Luật Hình sự, sau đó phải đưa vào trở lại vì tỷ lệ tội phạm gia tăng đột biến. Tôi ủng hộ việc duy trì hình phạt tử hình. Hãy chiến đấu để bảo vệ tự do, quyền được sống của con người, mang lại công bằng cho xã hội thay vì chúng ta quăng vũ khí mà đứng đó kêu lên: “Ôi, hình phạt tử hình vô nhân đạo quá!”. Hy sinh một lợi ích nhỏ để bảo vệ một lợi ích lớn hơn, âu đó cũng là lẽ phải.
link:
http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/hinh-su-to-tung-hinh-su/2009/8597/Loai-bo-hay-duy-tri-hinh-phat-tu-hinh.aspx mình nói rồi cái này đứng về phía nào cũng có lý cả, cãi nhau có mà cả năm cũng không ai chịu thua. tốn mực tốn giấy, tốn thời gian thôi
http://kine.cyworld.vn/detail/12000100544/89