Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

65 Trang «<2345678>»
  • Xem thêm     

    27/12/2016, 08:06:49 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

     Luật cư trú quy định như sau:

    Điều 9. Quyền của công dân về cư trú

    1. Lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú của mình phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
    2. Được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú.
    3. Được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú.
    4. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình.
    5. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật.

    Điều 12. Nơi cư trú của công dân

    1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.

    Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.

    Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.

    Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.

    2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.

    Như vậy, nếu bạn đang sinh sống, cư trú trên địa bàn một tỉnh, thành phố nay chuyển sang sinh sống tại một địa chỉ khác cùng thành phố đó thì không bắt buộc phải chuyển hộ khẩu. Bạn chỉ cần đăng ký tạm trú tại nơi ở mới là phù hợp với các quy định của pháp luật. Nếu bạn chuyển hẳn nơi cư trú sang đó để chăm sóc mẹ và thực hiện quyền thừa kế đối với ngôi nhà đó thì bạn có thể làm thủ tục chuyển hộ khẩu để thay đổi chỗ ở theo quy định của luật cư trú.

  • Xem thêm     

    20/12/2016, 10:22:48 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Quan hệ pháp luật giữa bạn với công ty là quan hệ pháp luật lao động. Quan hệ pháp luật này xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động và được Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn điều chỉnh. Vì vậy, việc bạn có phải bồi thường thiệt hại cho công ty hay không, mức độ bồi thường đến đâu được Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:

    "Điều 130. Bồi thường thiệt hại

    1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này.

    2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.

    Điều 131. Nguyên tắc và trình tự, thủ tục xử lý bồi thường thiệt hại

    1. Việc xem xét, quyết định mức bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động.

    2. Trình tự, thủ tục, thời hiệu xử lý việc bồi thường thiệt hại được áp dụng theo quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này.

    Điều 132. Khiếu nại về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất

    Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ công việc hoặc phải bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất nếu thấy không thoả đáng có quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.

     

    Điều 101. Khấu trừ tiền lương

    1. Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 130 của Bộ luật này.

    2. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình.

    3. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.".

    Như vậy, theo quy định pháp luật ở trên thì nếu bạn có lỗi vô ý gây thiệt hại tới tài sản của công ty thì mức bồi thường thiệt hại là bồi thường một phần thiệt hại. Nếu xác định được đối tượng gây mê lấy tài sản của doanh nghiệp thì đối tượng phạm pháp đó phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ bộ thiệt hại. Nếu bạn đã bắt được kẻ gian và giao cho công an mà cán bộ công an đó không xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật dấu hiệu hình sự thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật... vì vậy, bạn có thể khiếu nại về hành vi này tới thủ trưởng cơ quan đó để được xem xét giải quyết.

  • Xem thêm     

    15/12/2016, 08:03:27 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Việc phá chợ cũ, xây dựng chợ mới diễn ra thường xuyên để cải tạo, nâng cấp hạ tầng, quy mô của chợ. Thậm chí nhiều trường hợp còn phả bỏ chợ đề di dời đi nơi khác hoặc phá chợ tạm để xây dựng trung tâm thương mại.

    Trong vụ việc của bạn cần tìm hiểu thông tin từ phía ban quản lý chợ để biết kế hoạch, định hướng của chính quyền địa phương về cải tạo, xây lại chợ mới. Nếu có kế hoạch thì Ban quản lý chợ có trách nhiệm thông báo trước cho các tiều thương kinh doanh tại chợ. Trong trường hợp xây chợ mới thì những người đang thuê ki ốt cũng vẫn được quyền ưu tiên thuê tiếp để kinh doanh.

    Bạn xem chi tiết bài viết này:

    Bỏ chợ xây trung tâm thương mại: Cân nhắc hài hòa lợi ích
    Ông Doãn Công Khánh, Viện Nghiên cứu thương mại, khuyến cáo như vậy khi trao đổi về xu hướng chuyển chợ thành chợ - trung tâm thương mại đang được nhiều địa phương triển khai.
    Ông Khánh khẳng định, nhiều chợ sau khi nâng cấp, xây mới không đạt mục tiêu, nếu không muốn nói là thất bại. Xây mới, cải tạo thì dễ. Vấn đề là khôi phục hoạt động chợ như thế nào.  
     
    Thực tế cho thấy một số chợ tại Hà Nội sau khi bị xóa bỏ để xây chợ kết hợp với trung tâm thương mại (TTTM), nhưng giờ chỉ thấy... ngân hàng, doanh nghiệp thuê làm văn phòng... Như vậy về mục tiêu, hiệu quả phải xem lại. Không phải vị trí nào cũng có thể biến thành siêu thị, TTTM. Không thể áp đặt chủ quan, duy ý chí.
    - Nhiều địa phương, nhất là các thành phố lớn, có xu hướng chuyển đổi chợ thành các TTTM. Ông nhận định gì về xu hướng này?
     
    - Thời gian gần đây, chúng tôi có tiến hành khảo sát, đánh giá hiện trạng môi trường các chợ, kết quả cho thấy rất nhiều chợ đang bị ô nhiễm (rác thải, nước thải...), nhiều rác, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm... Vì vậy, việc nâng cấp, cải tạo để chợ đẹp hơn, vệ sinh và tiện lợi hơn là chính đáng. Tuy nhiên, có một thực tế là hàng loạt chợ ở Hà Nội như chợ Hàng Da, chợ Mơ, chợ Ô Chợ Dừa, chợ Cửa Nam... vốn rất sầm uất và là một phần văn hóa của Hà Nội, nhưng sau khi chuyển sang mô hình chợ - TTTM thì rất ế khách.
     
    Do đó, việc cải tạo các chợ, rồi TTTM mọc lên đúng vị trí đó nhưng dân không vào, hoặc tiểu thương phản đối thì phải cân nhắc lại mục tiêu và cách tổ chức, cách làm. Cách làm với mỗi chợ phải khác, chứ không nên làm theo một môtip giống nhau.
     
    - Có ý kiến cho rằng nhiều chợ bị đập đi xây TTTM không hẳn vì mục tiêu có chợ hoặc TTTM khang trang hơn, mà người ta quan tâm hơn đến dự án văn phòng, căn hộ sẽ mọc lên ở những dự án đó?
     
    - Dù phần lớn các chợ đều nằm ở vị trí đắc địa, nhưng nếu chỉ trông chờ vào chợ hay TTTM khi chuyển đổi, việc thu hồi vốn phải kéo dài nhiều năm chứ chưa nói đến lợi nhuận.Do đó, chủ đầu tư thường tính đến phương án dành một vài tầng làm TTTM, còn lại là làm chung cư, văn phòng cho thuê để thu hồi vốn nhanh và đạt lợi nhuận cao. Việc nhà đầu tư đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu cũng là điều dễ hiểu bởi kinh doanh phải tính toán đến lợi nhuận.
     
    Nhưng về phía cơ quan quản lý, khi xét duyệt cần cân đối lợi ích. Cần tránh kiểu chuyển chợ thành TTTM, chủ yếu là lấy đất giao cho chủ đầu tư xây chung cư, văn phòng cho thuê... Với những dự án kiểu này, chủ đầu tư có thể được lợi lớn từ lợi thế đất đai. Khi đó, phần chợ hoặc TTTM không có khách cũng không sao cả, chỉ tiểu thương thiệt. Theo tôi, phải khách quan, có nơi không nhất thiết phải xây TTTM, mà có thể chỉ cần cải tạo, nâng cấp thành chợ có vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm tốt hơn.
     
    - Nhiều ý kiến cũng bày tỏ lo ngại rằng nếu xóa chợ để xây TTTM, nhưng dân không vào các TTTM đó, lại dẫn đến tăng số chợ cóc tự phát - ngược với mục tiêu xóa bỏ chợ tạm?
     
    - Đúng vậy. Có chợ ở Hà Nội được cải tạo thành tòa chung cư, có mấy tầng làm chợ, TTTM. Kết quả Hà Nội có công trình đẹp - một tòa nhà chung cư. Nhưng chợ tại tầng dưới cứ thu hẹp dần. Khi nhu cầu của người dân vẫn còn thì hệ quả tất yếu là chợ cóc, chợ tạm tại các ngóc ngách xung quanh xuất hiện. Nó làm khổ cả chính quyền địa phương, công an suốt ngày phải đi dẹp trật tự. Người dân cũng khổ, kéo theo ô nhiễm, vệ sinh môi trường.
     
    - Theo ông, không nên cứ hiện đại là phải dẹp bỏ chợ truyền thống để xây TTTM?
     
    - Chợ nổi ở miền Tây người ta vẫn rất thích, thậm chí cả người nước ngoài cũng thích. Chợ xập xệ quá thì đúng là không thích vào, nhưng không phải cứ bỏ tiền, đập đi xây mới là được. Chợ chứa đựng yếu tố văn hóa, lịch sử, truyền thống. Chợ tình Sa Pa nếu bêtông hóa thì chẳng ai muốn vào...
     
    Hà Nội từng cấm bán hàng rong. Nhưng có học giả người Mỹ khi nghiên cứu lại bảo hàng rong là nét đẹp của thủ đô. Chuyên gia Mỹ nói có thể tới đây, Hà Nội còn phải thuê người đóng vai bán hàng rong để tái tạo lịch sử. Quan điểm của ông ấy là không nên cấm, mà quy hoạch, cho phép có địa điểm để bán hàng rong. Chợ truyền thống cũng vậy, nó cũng là nét đẹp văn hóa, lịch sử. Nên phát triển đa dạng loại hình chợ, kết hợp yếu tố văn hóa vùng, miền. Tuy nhiên, nên có đầu tư, nâng cấp, cải tạo, để chợ văn minh hơn...
     
    - Như vậy, giải pháp nào để hạn chế chợ tạm, chợ truyền thống nhếch nhác, nhưng vẫn đảm bảo có chợ tiện lợi cho người dân đến mua sắm?
     
    - Hiện nhiều chợ nhếch nhác nhưng người ta vẫn đến vì nó thuận tiện. Đó là thực tế, nên phải chấp nhận nhiều nơi sau cải tạo vẫn phải là chợ, buôn bán những ngành hàng theo kiểu truyền thống. Cái rất quan trọng là khi lên phương án tu bổ, phải có dự báo, nghiên cứu. 
     
    Theo tôi, nếu khi cải tạo chợ, biến nó thành các TTTM thì trước đó có điều tra xã hội học sẽ rất tốt. Các chủ đầu tư hiện nay đều có tính toán, dự báo, nhưng tính khoa học, chính xác, thực tiễn phải suy nghĩ lại. Trước khi làm, cần tìm hiểu kỹ, tham vấn ý kiến người dân như: nếu xây TTTM ở đây, ông bà có đến mua không? Với những câu hỏi cụ thể như có hầm, phải bỏ tiền gửi xe ông bà có đến mua không, khâu dự báo trên, theo tôi ở nhiều nơi còn bị coi nhẹ, tới đây cần làm bài bản.
     
    - Theo ông, cách nào để hài hòa quyền lợi các bên khi chuyển chợ thành TTTM?
     
    - Tại các chợ cóc, chợ tạm, khách hàng chỉ cần dừng xe lại là mua được, giá cả thuận mua vừa bán, lại không phải gửi xe. Trong khi đó, khi mua hàng tại các chợ kết hợp với TTTM, khách hàng lại phải gửi xe, thậm chí gửi xe dưới hầm, mất tiền nên cảm thấy không thích. Đây là lý do nhiều chợ đang sầm uất nhưng sau khi bị biến thành TTTM lại ế khách. 
     
    Do đó, đập chợ đi xây TTTM phải tính đến truyền thống mua sắm, thói quen tiêu dùng của người dân. Không đơn giản chỉ là đẹp hơn, sạch hơn mà được. Để hài hòa, đạt được mục đích cải tạo chợ, theo tôi, khi chuẩn bị cải tạo một chợ thành các TTTM hoặc hình thức nào đó, cần tham khảo rộng rãi ý kiến người dân. 
     
    Như Nhật Bản trước khi làm, họ đưa dự thảo, xin ý kiến người dân, từ hộ kinh doanh đến người dân sống ở địa bàn ấy... Các tập đoàn nước ngoài khi đầu tư TTTM, siêu thị họ làm rất cẩn trọng. Họ dự tính cả lưu lượng khách từng giai đoạn, kênh cung cấp nguồn hàng, nhân lực, rồi còn phải marketing nữa... Phải thế mới tạo sự kích thích, hiệu quả khi cải tạo chợ. 
     
    (Theo Zing News)

     

  • Xem thêm     

    13/12/2016, 08:43:52 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Hợp đồng thuê sạp, thuê kiot để kinh doanh là hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh có thời hạn. Theo quy định pháp luật thì nếu hết thời hạn mà không gia hạn hợp dồng thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực và bị thanh lý. Vì vậy, nếu hết hạn hợp đồng 5 năm nêu trên thì ban quản lý chợ có quyền lấy lại ki ốt đó để sử dụng vào việc khác, Nếu tiếp tục cho thuê thì bạn mới được quyền ưu tiên thuê tiếp,

  • Xem thêm     

    13/12/2016, 08:35:30 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu không có vạch sơn phân làn thì tim đường chính là gianh giới phân chia hai làn xe, tim đường do CSGT đo vẽ tính toán từ hai mép đường chứ không căn cứ vào khe hở giữa hai miếng bê tông.

  • Xem thêm     

    12/12/2016, 02:53:55 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! 

    Nếu xe máy không giữ khoảng cách an toàn, không làm chủ được tốc độ mà đâm vào xe ô tô phía trước thì xe máy có lỗi và phải chịu trách nhiệm về hậu quả của vụ việc tai nạn đó.

    Việc dừng đỗ xe ô tô taxi sai quy định thì phải chịu trách nhiệm về việc dừng đỗ sai quy định. Tuy nhiên, khi tham gia giao thông, các phương tiện phải làm chủ được tốc độ đối với phương tiện của mình nên việc xe sau không làm chủ tốc độ, đâm vào xe dừng đỗ phía trước thì xe sau phải chịu trách nhiệm. Việc dừng đỗ xe sai quy định không tất yếu dẫn đến việc phương tiện đi sau tông phải.

  • Xem thêm     

    12/12/2016, 08:04:05 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu người nào tổ chức cá độ bóng đá rồi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để ép người thua, người thân thích của họ phải trả tiền thì hành vi này có dấu hiệu của tội tổ chức đánh bạc và tội cưỡng đoạt tài sản. Nếu vụ việc không dừng lại ở đấy thì anh bạn có quyền làm đơn trình báo sự việc với công an để được xem xét giải quyết.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009:

    Điều 249.Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

    1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn  có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản

    1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

     

  • Xem thêm     

    10/12/2016, 10:32:52 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

     

    Hợp đồng vay tài sản được quy định cụ thể từ điều 471 đến điều 479 Bộ luật Dân sự 2005 như sau:

    Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

     

    - Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

     

    - Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

     

    - Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

     

    - Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.

     

    - Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.

     

    Sử dụng tài sản vay

     

    Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay; bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn, nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.

     

    Lãi suất

     

    - Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

     

    - Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.

     

    Theo Điều 361 của BLDS năm 2005 thì, “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. 

     

     Như vậy, theo quy định pháp luật thì bên vay tiền có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Bạn chỉ có nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay nếu bạn có thỏa thuận là người bảo lãnh theo quy định tại Điều 361 Bộ luật dân sự nêu trên. Nếu bạn không cam kết trả nợ thay khi bên vay không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ thì bạn không có nghĩa vụ phải trả khoản nợ đó.

     

    Nếu mức lãi suất thỏa thuận mà vượt quá mức lãi suất nêu trên thì pháp luật không thừa nhận và bên cho vay có thể bị xử lý về hành vi cho vay nặng lãi. Mức lãi suất quá 10 lần mức lãi suất cao nhất do nhà nước quy định và có tính chất cho vay nhiều người, nhiều lần, lấy tiền lãi là thu nhập chính.... thì người cho vay có thể bị xử lý hình sự về tội cho vay nặng lãi theo quy định tại Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

     

    Nếu có chứng cứ chứng minh được việc trả lãi với mức lãi suất quá mức nhà nước cho phép thì người vay tiền có quyền đòi lại số tiền lãi trái pháp luật đó hoặc bù trừ vào số tiền nợ gốc.

     

    Nếu người bạn của bạn vay tiền, sau đó gian dối, bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ thì người vay tiền có thể bị xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự hiện hành.  

     

    Nếu người cho vay tiền có hành vi đe dọa, uy hiếp bạn để buộc bạn phải trả nợ thay cho người vay tiền đó thì bạn có thể làm đơn trình báo sự việc cho công an để được xem xét giải quyết về tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định pháp luật. Nếu hành vi của người chủ nợ thỏa mãn dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản thì sẽ bị xử lý theo quy định sau đây của Bộ luật hình sự hiện hành :

     

     Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản

    1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Văn bản hướng dẫn

        

    MỤC I. VỀ MỘT SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT

    ...

    Điểm 3. Khi áp dụng các tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" (từ Điều 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều 143 BLHS) cần chú ý:

    3.1. Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).

    3.2. Đối với các tội quy định tại các điều 133, 134 và 136 thì thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt, cho nên không xem xét các thiệt hại này một lần nữa để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra được hướng dẫn tại tiểu mục 3.4 Mục 3 này.

    3.3. Đối với các tội có quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng, thì việc xác định hậu quả thiệt hại về tài sản không phải căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng, vì giá trị tài sản này đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt. Hậu quả phải là thiệt hại về tài sản xẩy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng.

    Ví dụ: A trộm cắp một lô thuốc chữa bệnh cho gia súc trị giá 40 triệu đồng. Do thuốc chữa bệnh cho gia súc bị trộm cắp nên không có thuốc để kịp thời chữa bệnh, dẫn đến đàn gia súc trị giá 100 triệu đồng bị chết. Trong trường hợp này giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 40 triệu đồng và hậu quả thiệt hại về tài sản là 100 triệu đồng.

    3.4. Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật chất).

    Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:

    a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng:

    a.1) Làm chết một người;

    a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

    a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;

    a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây;

    a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;

    a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.

    b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:

    b.1) Làm chết hai người;

    b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61 % trở lên;

    b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;

    b.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;

    b.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;

    b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này.

    c) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:

    c.1) Làm chết ba người trở lên;

    c.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

    c.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31 % đến 60% ;

    c.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng đẫn tại các điểm c.2 và c.3 trên đây;

    c.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này;

    c.7) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6 tiểu mục 3.4 này.

    Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

    ...

     

     

  • Xem thêm     

    09/12/2016, 10:17:59 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định tại Khoản 1, Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 (có hiệu lực tới ngày 01/01/2017) quy định về lãi suất vay như sau: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.

    Như vậy, với  mức lãi suất cho vay mà các bên thỏa thuận vượt quá 150%  lãi suất cơ bản do Ngân Hàng nhà nước công bố (thường khoảng 8 - 9 %) thì việc cho vay đó là cho vay nặng lãi. Tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi cho vay nặng lãi và hậu quả của hành vi cho vay nặng lãi thì người người vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật, có thể là xử lý hành chính hoặc hình sự.

     

    Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: 

    Điều 163.  Tội cho vay lãi nặng

    1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ  mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

    2. Phạm tội  thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng  đến ba năm.

    3. Người phạm tội  còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Như vậy, nếu việc cho vay nặng lãi ở mức độ "lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ  mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột " thì hành vi này mới có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 163 BLHS nêu trên.

  • Xem thêm     

    04/12/2016, 05:10:39 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Về nguyên tắc thì cơ quan cấp chứng minh nhân dân có nghĩa vụ phải hướng dẫn thủ tục và yêu cầu bổ sung hồ sơ cho bạn. Nếu họ không hướng dẫn, từ chối không có lý do thì bạn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính.

    Theo thủ tục thì giấy khai sinh là thông tin để đưa vào hộ khẩu, hộ khẩu là thông tin để cấp chứng minh nhân dân. Nếu sai ở khâu nào thì xin xác nhận để sử khâu đó. 

  • Xem thêm     

    01/12/2016, 07:57:20 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Vụ việc của mẹ bạn là hụi, họ, biêu, phường theo quy định của pháp luật, đó là quan hệ dân sự được pháp luật cho phép. Trong quan hệ dân sự đó nếu ai gian dối, bỏ trốn... nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì có thể bị xử lý hình sự.

    Với người nhận tiền hộ ông B, nếu đã nhận đủ 40 triệu đồng mà lại đưa cho ông B 26 triệu đồng, số tiền còn lại đã nhận từ mẹ bạn nhưng lại quả quyết là chưa nhận để nhằm chiếm đoạt số tiền đó... thì người này có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Khi giải quyết vụ việc này thì cần làm rõ chứng cứ giao tiền của mẹ bạn cho người thân của ông B.

    Để được giải quyết vụ việc này mẹ bạn hoặc ông B có thề gửi đơn trình báo tố giác tội phạm tới cơ quan điều tra, công an cấp quận, huyện để được xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật. Nếu người nhận đơn không xem xét giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng thì mẹ bạn có thể khiếu nại theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    25/11/2016, 02:37:40 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !


    Việc bạn hỏi là thủ tục cải chính hộ tịch. Lệ phí được quy định tại Thông tư số 179/2015/TT-BTC Ngày 13/11/2015, cụ thể như sau:

    "Điều 1. Sửa đổi, bổ sung điểm b.1 khoản 2 Điều 3 Thông tư số 02/2014/TT-BTC ngày 02 tháng 01 năm 2014 của Bộ Tài chính như sau:

    “b.1. Lệ phí hộ tịch, đăng ký cư trú, chứng minh nhân dân

    - Lệ phí hộ tịch là khoản thu đối với người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các công việc về hộ tịch theo quy định của pháp luật. Mức thu áp dụng tối đa đối với việc đăng ký hộ tịch tại từng cấp quản lý, như sau:

    + Mức thu áp dụng đối với việc đăng ký hộ tịch tại Uỷ ban nhân dân cấp xã:

    * Khai sinh: Không quá 8.000 đồng.

    * Khai tử: Không quá 8.000 đồng.

    * Kết hôn: Không quá 30.000 đồng.

    * Nhận cha, mẹ, con: Không quá 15.000 đồng.

    * Cấp bản sao trích lục hộ tịch: Không quá 3.000 đồng/1 bản sao.

    * Thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung hộ tịch: Không quá 15.000 đồng.

    * Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân: Không quá 15.000 đồng.

    * Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Không quá 8.000 đồng.

    * Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác hoặc đăng ký hộ tịch khác: Không quá 8.000 đồng.

    + Mức thu áp dụng đối với việc đăng ký hộ tịch tại Uỷ ban nhân dân cấp huyện:

    * Khai sinh: Không quá 75.000 đồng.

    * Khai tử: Không quá 75.000 đồng.

    * Kết hôn: Không quá 1.500.000 đồng.

    * Giám hộ: Không quá 75.000 đồng.

    * Nhận cha, mẹ, con: Không quá 1.500.000 đồng.

    * Cấp bản sao trích lục hộ tịch: Không quá 8.000 đ/1 bản sao.

    * Thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc: Không quá 28.000 đồng.

    * Ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài: Không quá 75.000 đồng.

    * Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác hoặc đăng ký hộ tịch khác: Không quá 75.000 đồng.

    + Miễn lệ phí hộ tịch trong những trường hợp sau:

    Đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; người khuyết tật.

    Đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.

    - Lệ phí đăng ký cư trú là khoản thu đối với người đăng ký, quản lý cư trú với cơ quan đăng ký, quản lý cư trú theo quy định của pháp luật về cư trú. Không thu lệ phí đăng ký cư trú đối với các trường hợp: bố, mẹ, vợ (hoặc chồng) của liệt sĩ, con dưới 18 tuổi của liệt sĩ; thương binh, con dưới 18 tuổi của thương binh; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; hộ gia đình thuộc diện xoá đói, giảm nghèo; công dân thuộc xã, thị trấn vùng cao theo quy định của Uỷ ban Dân tộc. Mức thu tối đa đối với việc đăng ký và quản lý cư trú tại các quận của thành phố trực thuộc Trung ương, hoặc phường nội thành của thành phố thuộc tỉnh như sau:

    + Đăng ký lần đầu, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu cá nhân; cấp lại, đổi sổ hộ khẩu gia đình, sổ tạm trú: không quá 20.000 đồng/lần cấp. Riêng cấp đổi sổ hộ khẩu cá nhân, gia đình; sổ tạm trú theo yêu cầu của chủ hộ vì lý do Nhà nước thay đổi địa giới hành chính, tên đường phố, số nhà: Không quá 10.000 đồng/lần cấp.

    + Điều chỉnh những thay đổi trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú (không thu lệ phí đối với trường hợp đính chính lại địa chỉ do Nhà nước thay đổi địa giới hành chính, tên đường phố, số nhà, xoá tên trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú): Không quá 8.000 đồng/lần đính chính.

    + Đối với các khu vực khác, mức thu áp dụng tối đa bằng 50% (năm mươi phần trăm) mức thu tương ứng nêu trên.

    + Miễn lệ phí khi đăng ký cấp lần đầu đối với: Cấp sổ hộ khẩu gia đình, sổ tạm trú.

    - Lệ phí chứng minh nhân dân là khoản thu đối với người được cơ quan công an cấp chứng minh nhân dân. Không thu lệ phí chứng minh nhân dân đối với các trường hợp: bố, mẹ, vợ (hoặc chồng) của liệt sĩ, con dưới 18 tuổi của liệt sĩ; thương binh, con dưới 18 tuổi của thương binh; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; hộ gia đình thuộc diện xoá đói, giảm nghèo; công dân thuộc xã, thị trấn vùng cao theo qui định của Uỷ ban Dân tộc. Mức thu tối đa đối với việc cấp chứng minh nhân dân (không bao gồm tiền ảnh của người được cấp chứng minh nhân dân) tại các quận của thành phố trực thuộc Trung ương, hoặc phường nội thành của thành phố thuộc tỉnh, như sau:

    + Cấp lại, đổi: Không quá 9.000 đồng/lần cấp.

    + Đối với việc cấp chứng minh nhân dân tại các xã, thị trấn miền núi, biên giới, hải đảo và các khu vực khác, mức thu áp dụng tối đa bằng 50% (năm mươi phần trăm) mức thu quy định đối với cấp chứng minh nhân dân tại các quận của thành phố trực thuộc Trung ương, hoặc phường nội thành của thành phố thuộc tỉnh.

    + Miễn lệ phí cấp chứng minh nhân dân khi công dân cấp chứng minh nhân dân lần đầu, cấp đổi chứng minh nhân dân do Nhà nước thay đổi địa giới hành chính.”. ".

  • Xem thêm     

    25/11/2016, 11:55:32 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !


    Bạn xem lại những thỏa thuận cụ thể nội dung thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm để biết đối tượng được bảo hiểm trnog trường hợp này là ai, trường hợp nào thì được bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm. Từ đó mới có căn cứ để khiếu kiện, yêu cầu bên bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

  • Xem thêm     

    25/11/2016, 11:32:57 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
     

           1. Là cán bộ, nhân viên trong một tổ chức thì ngoài việc phải tuân thủ quy định pháp luật, các thành viên trong tổ chức đó còn phải tuân thủ nội quy, quy chế hợp lệ của tổ chức. Việc ghi hình người khác liên quan tới quyền nhân thân về hình ảnh. Pháp luật quy định nếu người có hình ảnh không cho phép thì không ai được sử dụng hình ảnh của công dân.

    Vì vậy, nếu nội quy, quy chế của trường quy định việc ghi âm, ghi hình trong các cuộc họp phải có sự đồng ý của Chủ tọa cuộc họp mà có người không chấp hành thì người đó vi phạm. Việc xử lý người vi phạm sẽ bằng các biên bản, quyết định theo thủ tục hành chính. 

         2. Nếu trong cuộc họp hoặc tại cơ quan có người vi phạm kỷ luật, hành vi vi phạm có liên quan tới tài sản là tang vật thì việc tạm giữ phải được thực hiện bằng văn bản theo trình tự, thủ tục luật định, phải do cơ quan có thẩm quyền. Nếu người chủ trì cuộc họp hoặc cán bộ, lãnh đạo tự ý thu giữ tài sản, cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải bồi thường và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

    Nếu hành vi vô ý gây thiệt hại đến tài sản của người khác thì phải bồi thường thiệt hại nhưng nếu "cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác" mà trị giá tài sản từ 2 triệu đồng trở lên thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 143 BLHS cụ thể như sau:

    Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
    1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
    c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
    d) Để che giấu tội phạm khác;
    đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
    e) Tái phạm nguy hiểm;
    g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
  • Xem thêm     

    16/11/2016, 08:32:02 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !

    Theo thông tin vụ việc mà bạn nêu thì việc người khác sử dụng chứng minh thư của bạn để vay tiền làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ là quan hệ dân sự, là hợp đồng vay tài sản. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau:

    "Điều 471. Hợp đồng vay tài sản

    Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

     

    Điều 474. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

    1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

    3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.

    5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.".

    Như vậy, theo quy định pháp luật thì bên vay tài sản mới là người có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Bạn không phải là người vay tiền nên không có nghĩa vụ phải trả số tiền đó. 

    Chứng minh thư nhân dân không phải là "tài sản" theo quy định pháp luật nên không thể dùng để thế chấp đảm bảo khoản vay trên. Bạn không có nghĩa vụ phải trả số tiền 30 triệu đồng đó. Vì vậy, bạn có thể báo mất chứng minh nhân dân và làm lại chứng minh nhân dân khác. 

    Nếu người vay tiền mạo danh bạn để vay tiền sau đó bỏ trốn, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì người đó có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Vì vậy, nếu tranh chấp giữa các bên không giải quyết được thì bạn cũng có thể làm đơn trình báo sự việc với cơ quan công an để được giải quyết theo quy định pháp luật. Nếu người vay tiền có hành vi gian dối hoặc bỏ trốn dể chiếm đoạt số tiền 30 triệu đồng thì người vay tiền trong trường hợp này sẽ bị xử lý hình sự.

  • Xem thêm     

    01/11/2016, 08:26:57 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Để thi hành án dân sự thì cần phải xác minh được tài sản của người phải thi hành án, tài sản đó phải đủ điều kiện thi hành án thì mới có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án.

  • Xem thêm     

    01/11/2016, 08:19:09 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn có thể liên hệ trực tiếp với luật sư gần khu vực bạn cư trú để được hướng dẫn thủ tục và cung cấp dịch vụ pháp lý.

  • Xem thêm     

    31/10/2016, 02:41:38 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn trình bày thì việc vay mượn tiền giữa bạn (bên cho vay) và người vay  trước tiên là quan hệ dân sự. Về nguyên tắc, nếu bên vay tiền không trả nợ đúng hạn thì bên cho vay có quyền khởi kiện tới tòa án nơi người vay tiền cư trú (nơi người đó đang sinh sống, làm việc) để được tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Tuy nhiên, nếu người vay tiền đi khỏi nơi cư trú, không xác định được nơi cư trú thì bạn không thể khởi kiện để đòi nợ theo thủ tục tố tụng dân sự được.

    Nếu có căn cứ xác định người vay tiền bạn đã bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền đó thì người này sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, cụ thể như sau:

    "Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.'.

    Vì vậy, nếu không tìm được thông tin của người nợ tiền bạn thì bạn có thể làm đơn trình báo tới công an nơi bạn đã giao tiền cho người đó để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    27/10/2016, 04:09:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu mô hình của bạn chỉ là dạy kèm, hướng dẫn học sinh học theo chương trình sách giáo khoa theo kiểu gia sư thì không cần phải đăng ký kinh doanh. Nếu bạn có giáo trình, bài giảng riêng, tổ chức thành trường, lớp thì mới phải đăng ký kinh doanh có điều kiện.

  • Xem thêm     

    27/10/2016, 03:08:58 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Vụ việc của bạn là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Về nguyên tắc thì: Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp dân sự khi đương sự có yêu cầu và giải quyết trong phạm vi yêu cầu. Vì vây, nếu bên nguyên đơn cho rằng bạn đã nhận thừa tiền hụi và yêu cầu trả lại thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh về việc đó. Nếu không chứng minh được thì tòa án sẽ bác đơn khởi kiện và buộc họ phải chịu án phí. Bạn có thể xuất trình các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho quan điểm, ý kiến của mình đối với vụ việc trên... Nếu hòa giải không được thì tòa án sẽ mở phiên tòa để xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

65 Trang «<2345678>»