Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<60616263646566>»
  • Xem thêm     

    15/01/2012, 11:07:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Mức lãi suất để tính tội cho vay nặng lãi là mức quá 10 lần mức lãi suất CAO NHẤT của ngân hàng Nhà nước (mức lãi suất cho vay).
  • Xem thêm     

    15/01/2012, 11:05:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Bạn việc bạn cho vay với mức lãi suất như vậy là nặng lãi, pháp luật không bảo vệ mức lãi suất vượt quá mức lãi suất mà Nhà nước quy định. Bạn vẫn có quyền đòi lại số tiền gốc và lãi theo quy định pháp luật từ người vay.
  • Xem thêm     

    15/01/2012, 10:54:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu mức lãi suất thỏa thuận vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Nhà nước công bố là cho vay nặng lãi. Với lãi suất như bạn nói là cho vay nặng lãi.
            Tuy nhiên, mức lãi suất như bạn nêu chưa đủ căn cứ để cấu thành tội cho vay nặng lãi theo quy định của pháp luật (chỉ cấu thành tội cho vay nặng lãi khi lãi suất quá 10 lần mức lãi suất cao nhất của Nhà nước và có tính chất chuyên bóc lột).
  • Xem thêm     

    15/01/2012, 10:49:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo quy định của pháp luật thì hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành tài sản. Nếu cố ý ghi sai địa chỉ nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì có thể xác định là hành vi lừa đảo...
               Tuy nhiên, chỉ có việc "nhầm lẫn" về địa chỉ của bên vay mà không có căn cứ chứng minh là bên vay "cố tình" ghi sai địa chỉ, họ cũng không bỏ trốn, không có hành vi gian dối nào khác thì chưa đủ căn cứ để buộc tội họ. Khi giao kết hợp đồng thì bên cho vay phải có nghĩa vụ tìm hiểu thông tin về bên vay và khả năng trả nợ của bên vay.
               Do vậy, bạn cần tìm thêm các căn cứ khác thì mời khẳng định là bên vay có GIAN DỐI NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN của bạn hay không.

  • Xem thêm     

    15/01/2012, 02:06:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
            1. Theo quy định của pháp luật thì chỉ lời khai của một bên hoặc lời nhận tội của bị can, bị cáo thì không phải là chứng cứ buộc tội.  Việc buộc tội, kết tội phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ án, trong đó lời khai chỉ là một tình tiết. Do vậy, nếu chỉ có lời khai của bên vay thì chưa phải là căn cứ kết tội bạn.
            2. Bạn chỉ phạm tội cho vay nặng lãi theo quy định tại Điều 163 BLHS nếu mức lãi suất cho vay của bạn cao hơn 10 lần mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm cho vay và bạn không có nghề nghiệp nào khác ngoài nghề cho vay nặng lãi (tính chất chuyên bóc lột).
  • Xem thêm     

    12/01/2012, 10:49:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu bạn bị xử lý, bạn sẽ khai ra anh ta và công an sẽ gọi anh ta. Khi đó mọi việc cũng sẽ vở nở. Nếu anh ta đã nhận và thừa nhận việc đó thì mọi việc coi như xong.
  • Xem thêm     

    12/01/2012, 09:50:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời bạn như sau;

    1.                 Số tiền đó là tiền của Công ty và thưởng (hoa hồng) cho khách hàng theo thỏa thuận của đôi bên. Công ty có chứng từ về việc bạn nhận tiền của Công ty nhưng bạn không chứng minh được số tiền đã giao cho khách thì bạn phải hoàn lại số tiền đó cho Công ty. Nếu bạn không hoàn lại số tiền đó thì bạn có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

    2. Nếu thực sự bạn đã chuyển tiền cho anh A của Công ty A thì bạn có thể gặp anh đó để xin xác nhận. Việc nhận tiền hoa hồng đó chỉ có anh A và công ty bạn biết nên việc xác nhận đó sẽ không phải là vấn đề phức tạp. Nếu anh A đã nhận tiền mà không thừa nhận, đồng thời bạn cũng không trả lại tiền cho Công ty thì khi công an vào cuộc thì việc nhận hoa hồng của anh A cũng sẽ được công khai và bạn có thể bị xử lý hình sự. Do vậy, bạn nên thuyết phục anh A xác nhận để vừa tháo gỡ vướng mắc cho bạn vừa đỡ ảnh hưởng đến anh A.

  • Xem thêm     

    11/01/2012, 12:45:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo thông tin bạn nêu thì có thể họ là nhóm tội phạm lừa đảo có tổ chức. Do vậy, bạn có thể trình báo toàn bộ sự việc trên với công an để được điều tra làm rõ. Bạn nhớ cung cấp kèm theo giấy chuyển tiền và các thông tin của đối tượng để Công an xem xét, xử lý theo pháp luật.
  • Xem thêm     

    10/01/2012, 03:32:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    10/01/2012, 09:45:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Nếu vụ việc vay mượn đó có dấu hiệu lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì công an là cơ quan có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án dân sự nơi người vay cư trú sẽ có thẩm quyền giải quyết.
    2.  Bạn có thể trình báo sự việc đến cơ quan công an nơi có việc giao nhận tiền hoặc gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nơi người vay cư trú để được giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    08/01/2012, 02:30:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    08/01/2012, 02:29:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn tham khảo nội dung tư vấn của bạn Huankqa68!
  • Xem thêm     

    06/01/2012, 11:27:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            1. Theo quy định của pháp luật thì chủ doanh nghiệp có quyền quyết định việc kinh doanh của doanh nghiệp đó. Họ có thể bán, tặng cho tài sản của mình cho doanh nghiệp khác. Vo vậy, hành vi mà bạn nêu không phải là dấu hiệu của tội lừa đảo.
            2. Nếu tranh chấp đối với hợp đồng vay đó mà công ty không còn tài sản thì những người cho vay phải chịu rủi ro. Bạn nên nhớ trách nhiệm của công ty chỉ là 1 tỷ đồng(trong khi đó khoản nợ là 20 tỷ).
            3. Vấn đề của bạn là phải yêu cầu công an xử lý, làm rõ việc sử dụng khoản tiền vay đó như thế nào? Có dấu hiệu sai phạm gì trong việc sử dụng tiền vay đó  hay không, từ đó tìm cách xử lý. Trong vụ việc này phải để công an vào cuộc và điều tra thì mới có thể xác định được là có dấu hiệu tội phạm hay không.
    Nếu không có dấu hiệu tội phạm mà chỉ xử lý dân sự thôi thì bạn khó mà đòi được nợ bởi trách nhiệm HỮU HẠN của Công ty đó.
  • Xem thêm     

    06/01/2012, 10:32:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Theo quy định tại Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 của Chính Phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, những ngành, nghề sau bị cấm kinh doanh như sau:

    1) Kinh doanh vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng;

    2) Kinh doanh chất ma túy các loại;

    3) Kinh doanh hóa chất bảng 1 (theo Công ước quốc tế);

    4) Kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách;

    5) Kinh doanh các loại pháo;

    6) Kinh doanh các loại đồ chơi, trò chơi nguy hiểm, đồ chơi, trò chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự an toàn xã hội;

    7) Kinh doanh các loại thực vật, động vật hoang dã, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến, thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác, sử dụng;

    8) Kinh doanh mại dâm, tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em;

    9) Kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức;

    10) Kinh doanh dịch vụ điều tra bí mật xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân;

    11) Kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài;

    12) Kinh doanh dịch vụ môi giới nhận cha, mẹ, con nuôi, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;

    13) Kinh doanh các loại phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường;

    14) Kinh doanh các loại sản phẩm, hàng hóa và thiết bị cấm lưu hành, cấm sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành và/hoặc sử dụng tại Việt Nam;

    15) Các ngành, nghề cấm kinh doanh khác được quy định tại các luật, pháp lệnh và nghị định chuyên ngành.

            Theo quy định của pháp luật trên thì đồ chơi tình dục (Sextoy) là hàng hóa cấm kinh doanh, do vậy việc mua bán hàng hóa đó không được pháp luật bảo vệ. Nếu bạn tham gia việc mua bán hàng hóa đó có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (tùy vào tính chất, mức độ của hành vi).
  • Xem thêm     

    02/01/2012, 06:46:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1.
    CHO VAY NẶNG LÃI
              Khoản 1, Điều 476 Bộ luật Dân sự, năm 2005 quy định: " Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng"(.
              Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự thì  nếu lãi suất cho vay vượt quá 150%  lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng thì là "cho vay nặng lãi". Mức lãi suất 5000/1trd/ngày là nặng lãi.
              Hậu quả pháp lý: Khi có tranh chấp
    xảy ra thì Nhà nước không bảo vệ quyền lợi cho bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
    2. TỘI CHO VAY NẶNG LÃI
              Điều 163 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:

    "1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị; phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

    2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm
    ."

              Như vậy, việc cho vay nặng lãi chỉ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 163 BLHS khi thỏa mãn cả hai điều kiện sau đây:

    Cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên (ví dụ: Lãi suất cho vay của Nhà nước là 18%/ năm thì mức nặng lãi có thể bị xử lý hình sự là 180% năm);

    -  Có tính chất chuyên bóc lột (thành nghề cho vay nặng lãi..).

              Thực tế ở nước ta rất khó bị xử lý về tội cho vay nặng lãi bởi việc chứng minh tội phạm  này không đơn giản... Hiện nay, các tiệp cầm đồ thường cho vay với mức lãi suất cao như mức lãi suất bạn nêu nhưng  thực tế chưa có ai bị xử lý  hình sự vì thiếu quy định pháp luật cụ thể về đối tượng này.

  • Xem thêm     

    29/12/2011, 11:54:30 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Vấn đề bạn hỏi thuộc lĩnh vực tội phạm hình sự có yếu tố nước ngoài. Khoản 1, Điều 5 BLHS quy định "Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Khoản 1, Điều 6 quy định: "Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này.

    Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam."
    Theo pháp luật VN thì hành vi đánh bạc là hành vi bị pháp luật VN nghiêm cấm đối với công dân VN trên lãnh thổ VN (có thể cả ngoài lãnh thổ VN). Do vậy, với các trang Web cá độ đó có thể người nước ngoài tham gia thì không phạm tội nhưng người VN tham gia trên lãnh thổ VN thì phạm tội theo pháp luật Việt Nam.

  • Xem thêm     

    28/12/2011, 08:59:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Cá độ bóng đá trên mạng internet tại VN là một hình thức đánh bạc và vi phạm pháp luật VN.
  • Xem thêm     

    28/12/2011, 08:55:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn hoangducthanh68!
    Luật sư Quyển đã tư vấn cho bạn. Tôi bổ sung thêm như sau:

    Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự được TAND tối cao hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 như sau:

    "4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết hai người;

    b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

    4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết ba người trở lên;

    b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%.

    e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên."

  • Xem thêm     

    18/12/2011, 06:55:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
            Nội dung bạn hỏi đã được phân tích, giải thích rất cụ thể ở cuốn Giáo trình luật hình sự của trường Đại học luật Hà Nội và cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự. Bạn hãy tìm đọc hai cuốn sách trên để hiểu được cấu thành của các tội phạm cụ thể. Nếu còn nội dung gì chưa rõ thì bạn cùng thảo luận với các bạn nhé.
            Nếu là một trường hợp phạm tội thực tế hoặc vấn đề lý luận còn gây tranh cãi thì bạn có thể đặt câu hỏi tại phần TƯ VẤN CỦA LUẬT SƯ để được luật sư giải đáp và hỗ trợ pháp lý.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    17/12/2011, 03:17:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Nếu người vay tiền không còn khả năng trả nợ thì có căn cứ để xác định họ đã phạm tội. Tâm lý của chồng con, gia đình người vay đó là sợ pháp luật, không muốn cho người đó phải "đi tù". Do vậy, nếu họ nhận thức được tình thế là phải đứng trước hai sự lựa chọn: Trả nợ hoặc đi tù thì chắc họ sẽ đồng ý trả nợ để được tự do. 

            Tuy nhiên, để phân tích, thuyết phục họ "hiểu ra vấn đề" cũng không phải dễ dàng. Để có kết quả làm việc "ba bên" (bên vay, bên cho vay và công an) một cách hiệu quả, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bên cho vay thì bạn phải được sự "quan tâm, giúp đỡ" của các cơ quan công quyền. Do vậy, bạn có thể tiếp tục gửi đơn hoặc đến làm việc trực tiếp với công an quận và Viện kiểm sát để thúc đẩy tiến trình giải quyết vụ việc. Bạn cũng có thể tiếp tục gửi đơn thư tới cơ quan của người vay, báo chí và các cơ quan công luận khác để tạo ra sức mạnh tổng hợp mới mong đạt kết quả tốt.

             Nếu bạn không thể thực hiện được các công việc trên hoặc thực hiện không có hiệu quả thì nên mời luật sư tham gia để bảo vệ quyền lợi cho bạn. Cụ thể về thù lao luật sư, cách thức thực hiện công việc, thời gian thực hiện công việc thì bạn nên gặp và trao đổi trực tiếp với Luật sư. 

             Chúc bạn thành công!

69 Trang «<60616263646566>»