Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<59606162636465>»
  • Xem thêm     

    07/02/2012, 12:02:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn trình báo toàn bộ sự việc đó với công an phường để được xem xét, can thiệp kịp thời. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì thẩm quyền thuộc về công an cấp quận hoặc công an thành phố khi đó công an phường sẽ chuyển hồ sơ đến cơ quan cấp trên để được giải quyết. Nếu họ đến đánh đập, bắt người hoặc đập phá tài sản thì bạn có thể gọi 113 để được can thiệp kịp thời.
  • Xem thêm     

    06/02/2012, 10:30:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
            1. Thực tế khi tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nhiều người không khởi kiện dân sự mà lại ủy quyền cho "dân xã hội" dùng bạo lực để "đòi nợ thuê" gây ra rất nhiều hệ lụy cho xã hội. Về mặt pháp lý thì chủ nợ có quyền ủy quyền cho người khác đòi nợ. Tuy nhiên việc ủy quyền đó phải có căn cứ (căn cứ pháp lý để ủy quyền có thể là hợp đồng vay nợ hoặc giấy nhận nợ hoặc phiếu thu., băng đĩa ghi âm, ghi hình..). Nếu việc ủy quyền không có căn cứ pháp lý mà người nhận ủy quyền vẫn cưỡng ép người khác trả nợ thì cả bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền đều có thể phạm tội cướp tài sản hoặc cưỡng đoạt tài sản...
            2. Trường hợp của gia đình bạn: Nếu đúng là gia đình bạn không còn nợ người kia số tiền là 300trđ mà người kia vẫn thuê người khác đến đòi nợ gia đình bạn thì cả người đòi nợ và người thuê đòi nợ đều phạm pháp. Nếu công an  vào cuộc, họ không xuất trình được căn cứ để đòi nợ (hợp đồng vay nợ, giấy nhận nợ, phiếu thu...) mà vẫn bắt gia đình bạn trả tiền thì họ sẽ phạm tội cưỡng đoạt tài sản hoặc cướp tài sản. Do vậy, gia đình bạn  cần trình báo toàn bộ sự việc với công an địa phương để được giúp đỡ (người ngay không thể sợ kẻ gian được). Nếu bạn hiểu biết pháp luật và biết vận dụng pháp luật thì pháp luật luôn luôn bảo vệ bạn - bảo vệ công bằng, lẽ phải.
    Chúc bạn thành công! Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể nêu tiếp câu hỏi để luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    05/02/2012, 08:32:42 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

             Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), gồm: vũ khí quân dụng (súng ngắn, súng trường, súng liên thanh), vũ khí thể thao (súng trường, súng ngắn thể thao, súng hơi...), súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, mã tấu...).

              Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.

                Ví dụ:-  Về công cụ, dụng cụ có: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...;

    - Về vật mà người phạm tội chế tạo ra có thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...;

    - Về vật có sẵn trong tự nhiên có: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...

             Vụ việc của gia đình bạn đùng dao, đá là hung khí nguy hiểm rồi. Nếu thương tích dưới 11% thì cũng có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo quy định tại khoản 1, Điều 104 BLHS.

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:33:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
          Theo thông tin mà bạn nêu trên thì người đó có thể phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 140 BLHS, cụ thể như sau:
    " Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản..."

          Nếu người đó bị khởi tố hoặc bạn tìm được người đó thì bạn có cơ hội lấy lại được tài sản. Bạn có thể trình báo toàn bộ sự việc trên với công an để được giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:16:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo thông tin bạn nêu thì số tiền 4 triệu chuyển qua tài khoản bạn có thể đòi lại theo thủ tục tố tụng dân sự (khởi kiện đòi nợ). Còn số tiền 4 triệu trao tay, không có biên bản gì thì không có chứng cứ pháp lý để bạn đòi lại họ (trừ trường hợp họ thừa nhận khoản nợ đó).
               Tuy nhiên, với tinh thần "còn nước, còn tát" thì bạn có thể gửi đơn đến trường bạn gái đó và đơn ra công an để làm rõ sự việc. Với sinh viên thì cách thức đó cũng có thể tạo ra cơ hội để lấy lại tiền cho bạn...
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 06:57:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Trách nhiệm hình sự:
           Theo thông tin bạn nêu thì người điều khiển xe ô tô chở phạm nhân đã phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 BLHS. Cụ thể như sau:
           

    Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

              1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.”.

              2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết hai người;

    b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

              3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết ba người trở lên;

    b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%.

    e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên

              4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

              5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


    2. Trách nhiệm dân sự:
          Cơ quan công an đó sẽ phải bồi thường cho gia đình bạn các khoản tiền như sau: Tiền chi phí cứu chữa mẹ bạn trước khi chết + Tiền mai táng phí + Tiền cấp dưỡng cho người thân (bà Nội) + Tiền tổn thất về tinh thần không quá 60 tháng lương tối thiểu.
          Cụ thể Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:

    "Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

                2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.    


                Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                 c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

  • Xem thêm     

    02/02/2012, 10:21:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn có thể trình báo vụ việc với công an để được giải quyết. Nếu vụ việc lừa đảo chỉ có thực hiện 1 lần với một nạn nhân, số tiền là 2 triệu đồng thì có thể phải chờ đợi khá lâu mới được giải quyết (vì vụ việc nhỏ quá...!). Tuy nhiên, nếu nhiều người cùng bị lừa như vậy hành vi lừa đảo đó là của nhóm tội phạm có tổ chức thì vụ việc sẽ sớm được giải quyết. Đó cũng là bài học để chúng ta cảnh giác... 
  • Xem thêm     

    01/02/2012, 02:33:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
            Theo thông tin mà bạn nêu trên thì người kia đã làm thiệt hại đến tài sản của bạn do vậy phải bồi thường tài sản cho bạn. Nếu người đó đập phá làm cho xe không thể hoạt động được thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 BLHS.
  • Xem thêm     

    30/01/2012, 06:14:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu người yêu bạn chỉ sử dụng chất ma túy mà không buôn bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy thì không bị xử lý về hình sự (theo quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009), chỉ có thể bị xử phạt hành chính và bắt buộc cai nghiện.
  • Xem thêm     

    29/01/2012, 01:30:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Luật sư Chanh đã tư vấn cho bạn. Tôi đính chính một chút là:
    1.  Sự việc xảy ra "10 năm trước", tức là năm 2002 do vậy luật áp dụng là Bộ luật tố tụng dân sự năm 1988 chứ không áp dụng BLTTHS năm 2003. Khởi tố bị can được quy định tại Điều 103; Truy nã được quy định tại Điều 136.
           Nếu gia đình bạn chưa nhận được quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không biết thông tin gì về việc truy nã thì gia đình bạn cần tìm hiểu thông tin ở công an cấp huyện và công an cấp tỉnh xem vụ việc đó đã bị khởi tố chưa? Việc có tội hay không có tội và trách nhiệm pháp lý đến đâu thì phải căn cứ vào thực tế vụ việc và đối chiếu với các quy định của pháp luật hình sự thì mới biết được....
    2. Bạn cũng lưu ý quy định pháp luật về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sau đây của BLHS  sửa đổi năm 2009 để bảo vệ quyền lợi cho người thân của mình:

    "Điều 23. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
    2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
      a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
      b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
      c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng.
      d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
    3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

      Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ."

  • Xem thêm     

    29/01/2012, 12:57:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào các bạn và luật sư đồng nghiệp!
           Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 Bãi bỏ các điều 131, 183, 184 và 199 (tội sử dụng trái phép chất ma túy) chứ đâu có bỏ Điều 194 BLHS năm 1999 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy).

           Điều 194 quy định như sau:

    Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

    h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

    i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;

    m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;

    n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

    o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam ��ến dưới năm kilôgam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

  • Xem thêm     

    29/01/2012, 12:41:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn vaha0066!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Khoản 1, Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
              "Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
      a. Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
      b. Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội."
             Như vậy, tạm giam chỉ được áp dụng cho bị can, bị cáo (sau khi có quyết định khởi tố vụ án...) chứ không áp dụng cho người bị TẠM GIỮ.

    Điều 87 BLHS quy định thời hạn tạm giữ như sau:

    "1.            Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

    2.     Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

    3.     Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

    4.     Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam."

           Như vậy, thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày. Nếu trong thời hạn tạm giữ mà không khởi tố thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Nếu khởi tố vụ án thì mới có thể áp dụng lệnh tạm giam. Nếu công an làm sai thì gia đình người bạn đó có quyền khiếu kiện theo quy định của pháp luật.
            2. Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 BLHS như sau:

    "Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản

    1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

  • Xem thêm     

    29/01/2012, 12:12:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào các bạn và các luật sư đồng nghiệp!
           Thông qua nội  dung mà các luật sư và các thành viên tư vấn cho bạn hainguyen2011 tôi có một vài ý kiến bổ sung nhỏ như sau:
           1. Chúng ta không nên sợ đánh nhau, không xúi giục "người ta" đánh nhau nhưng cũng không nên khuyên người ta "cam chịu". Theo thông tin ở trên, bạn hainguyen2011 đã tự kiềm chế trước những lời đe dọa, thách thức của "đối phương" chứng tỏ bạn đó đã giữ được bình tĩnh, tìm đến những lời tư vấn của Luật sư để tìm cho mình cách xử sự cho "đúng luật".
            2. Có nhiều cách giải quyết vấn đề chứ không nhất thiết phải "động thủ". Vấn đề của bạn là muốn níu kéo tình cảm của bạn gái đó chứ không phải là "dạy cho gã trai kia một bài học" ? Nếu bạn dùng "bạo lực" (trong khuôn khổ pháp luật cho phép) để loại bỏ tất cả các "vệ tinh" xung quanh bạn gái cũ của bạn thì liệu bạn có thể "giành lại thiên đường đã mất" hay không? Đó là câu hỏi bạn phải trả lời trước khi hành động. Nếu bạn không cần đánh người kia nhưng vẫn giải quyết được tình cảm của mình với bạn gái cũ thì sẽ tốt hơn.
            3. Trong phạm vi diễn đàn này, ý của bạn ấy muốn hỏi là "đánh nhau như thế nào cho không phạm tội cố ý gây thương tích, hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác?". Tôi trả lời như sau:

    Điều 104 BLHS quy định: "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1.                  Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

           Như vậy, nếu một mình bạn dùng tay, chân cơ bắp gây thương tích cho người khác dưới 11 % (lần thứ nhất và không gây cố tật cho họ) thì bạn không phạm tội theo quy định tại Điều 104 BLHS. Nếu bạn gây thương tích dưới 11 % mà có tổ chức, gây cố tật, sử dụng hung khí nguy hiểm (vật cứng, sắc, nhọn...), thuê người gây thương tích, có tính chất côn đồ (vì lý do nhỏ nhặt)... thì bạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

           - Bạn lưu ý là khi  "hỗn chiến" thì khó mà kiểm soát được mình sẽ gây thương tích bao nhiêu % thì dừng lại. Căn cứ tính thương tích thì bạn có thể tham khảo tại Thông tư số 12/1995/TTLB ngày 26/7/1995  để biết thêm chi tiết.
           - Nếu bạn tụ tập nhiều người để gây thương tích cho người khác thuộc trường hợp quy định tại Điều 104 BLHS thì những người theo bạn không phạm tội cố ý gây thương tích thì cũng có thể phạm tội gây rối trật tự công cộng.
           - Chuyện tình cảm thì rất phức tạp, không ai có thể hiểu hết được. Là đàn ông, đôi khi cũng phải dùng đến sức mạnh "cơ bắp" để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, pháp luật chỉ cho phép "hành xử" trong hai tình huống là phòng vệ chính đáng (chống trả một cách cần thiết) và tình thế cấp thiết. Do vậy, bạn hãy cân nhắc để hành xử sao cho đúng pháp luật. Hậu quả cơn nóng giận bao giờ cũng nguy hại hơn nguyên nhân. Bạn hãy tìm ra các giải quyết sao cho có tình, có lý và đạt hiệu quả trong chuyện tình cảm đó, đừng vì nóng giận, không kiểm soát được bản thân rồi rơi vào vòng lao lý.
           Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    24/01/2012, 08:06:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Vụ việc mà bạn nêu  thì về mặt dân sự người trông xe có nghĩa vụ bồi thường cho người mất xe. Mức bồi thường do hai bên thỏa thuận (pháp luật khuyến khích các bên thỏa thuận). Nếu để pháp luật giải quyết thì bên giữ xe sẽ bồi thường cho chủ xe giá trị của chiếc xe đó tại thời điểm chiếc xe đó bị mất (xe cũ thì đã trừ khấu hao).
            Tuy nhiên, bên giữ xe có thể phải bồi thường các khoản khác ngoài giá trị chiếc xe đó (thu nhập bị mất, bị giảm sút do mất xe...) và để mọi việc rùm beng sẽ mất uy tín... Hai bên cũng sẽ mất thời gian, công sức, tiền bạc để theo kiện. Do vậy, cách tốt nhất là thỏa thuận sao cho hài hòa lợi ích của các bên.
  • Xem thêm     

    22/01/2012, 03:31:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Vụ việc của bạn liên quan đến đối tượng là "công an" nên sẽ có nhiều vấn đề "nhạy cảm". Bạn nên mời luật sư để tư vấn và bảo vệ quyền lợi cho bạn. Thù lao luật sư là công sức và chi phí mà luật sư thực hiện công việc, với mỗi vụ việc, mỗi đối tượng  khách hàng phù lao luật sư lại khác nhau (mỗi luật sư cũng tính thù lao khác nhau...) ... do vậy bạn nên liên hệ trực tiếp với Luật sư ở tp HCM hoặc luật sư nơi bạn cư trú để biết mức thù lao và được cung cấp dịch vụ pháp lý.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    22/01/2012, 03:25:26 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
          Theo thông tin mà bạn đã nêu thì bạn của bạn có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS (nếu mục đích chiếm đoạt có trước khi nhận xe của bạn) hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Bạn có thể liên hệ với các bạn bè, gia đình, người thân của bạn đó để tìm hiểu thông tin về bạn đó...
          Nếu vẫn không tìm được xe thì bạn có thể trình báo toàn bộ sự việc với công an nơi có sự việc xảy ra để được giải quyết theo pháp luật.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    22/01/2012, 03:13:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Bạn tham khảo nội dung tư vấn của bạn trinhlan_sgulaw ở trên.
  • Xem thêm     

    20/01/2012, 11:17:05 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Về trách nhiệm dân sự:

         Bạn đã gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản của người đó nên theo quy định pháp  luật thì người đó có quyền kiện bạn để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật: Bạn sẽ phải bồi thường tiền chi phí cứu chữa, phôi phục sức khỏe, thu nhập bị mất, bị giảm sút do thương tích và tổn hại về tinh thần.
    2. Trách nhiệm hình sự:

         Bộ luật hình sự hiện hành quy định về tội cố ý gây thương tích như sau:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1.                  Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

          Theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

         Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), gồm: vũ khí quân dụng (súng ngắn, súng trường, súng liên thanh), vũ khí thể thao (súng trường, súng ngắn thể thao, súng hơi...), súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, mã tấu...).

         Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công. Chẳng hạn: Về công cụ, dụng cụ có: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...; về vật mà người phạm tội chế tạo ra có thanh sắt mài nhọn, côn gỗ; về vật có sẵn trong tự nhiên có: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...

          Như vậy, theo quy định của pháp luật thì dù thương tích của người đó chưa đến 11% nhưng nếu bạn dùng hung khí nguy hiểm hoặc có tính chất côn đồ (vô cớ phạm tội hoặc vì những lý do nhỏ nhặt mà phạm tội) thì bạn vẫn có thể bị khởi tố theo quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS. 

          Tuy nhiên, trong chuyện này nạn nhân cũng có lỗi do vậy, bạn cần trình bày rõ sự việc và tìm chứng cứ, người làm chứng để biện minh cho mình. Nếu bạn chứng minh được toàn bộ nội dung sự việc như bạn kể thì có thể bạn sẽ không bị khởi tố mà ngược lại người công an kia sẽ bị kỷ luật. Bạn cũng có thể mời luật sư để tư vấn kịp thời và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bạn.

    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    19/01/2012, 04:59:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Theo thông tin bạn nêu thì chưa có dấu hiệu phạm tội chống người thi hành công vụ (không có tình tiết nào thể hiện anh "công an" đó đang thực hiện nhiệm vụ...). Nếu bạn dùng vỏ chai đánh người "công an" kia bị thương thì có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1, Điều 104 BLHS. Do vậy, bạn cần tường trình toàn bộ vụ việc và yêu cầu lấy lời khai của những người làm chứng để làm rõ đúng sai trong sự việc trên.
  • Xem thêm     

    19/01/2012, 08:00:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào Luật sư Sơn!
           Đó là một thực tế đã và đang diễn ra ở nước ta, đã gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Việc hình thành và phát triển tín dụng đen trong thời gian vừa qua xuất phát từ sự yếu kém trong quản ký kinh tế của Nhà nước, nhất là lĩnh vực Bất động sản, Vàng và Chứng khoán. Nhiều trường hợp đi vay lãi cao với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản nhưng cũng nhiều Doanh nghiệp do thiếu vốn để "đánh quả" nên chấp nhận vay lãi ngày (lãi suất cao nhưng thời gian ngắn) để giải quyết những vướng mắc của DN. Khi nền kinh tế đột ngột suy thoái thì các DN này mất khả năng thanh toán, rơi vào tình trạng phá sản và kéo theo các hệ lụy khác...
          Thông thường những đối tượng có "máu mặt" mới có thể cho vay ở mức lãi suất cao và mới có khả năng thu hồi nợ (họ thường cho vay lãi cao kiêm đòi nợ thuê). Với những đối tượng này thì
    con nợ không còn tài sản cũng không thể quỵt nợ được (anh em, gia đình phải trả nợ thay), nếu bỏ trốn thì có thể phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
          Còn những người dân thường, không am hiểu nhiều pháp luật, ít va chạm "xã hội" thì khó có khả năng thu hồi nợ. Nếu vụ việc không có dấu hiệu tội phạm thì chỉ có thông qua các công ty thu hồi nợ hoặc khởi dân sự mới có thể lấy lại được tài sản của mình.
69 Trang «<59606162636465>»