Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<646566676869>
  • Xem thêm     

    25/10/2011, 06:21:47 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
          1. Như vậy, là bạn đã hiểu thêm phần nào những điều tôi muốn nói lần trước. Trại giam cũng như xã hội bên ngoài nên cũng có những mặt trái của nó... chỉ có những người trong nghề hoặc trong cuộc mới biết được..
          2. Việc công an giữ xe của bạn đó là để điều tra: Nếu chiếc xe đó được sử dụng vào việc phạm tội thì gọi là "công cụ, phương tiện phạm tội" và bị tịch thu. Nếu không liên quan đến vụ án thì công an sẽ trả lại chiếc xe đó. Việc giữ xe như vậy là đúng pháp luật.
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 07:11:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào ban!

    Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 104 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

    #c00000;">          Như vậy, để xác định bạn của bạn có phải "đi tù nữa" hay không phụ thuộc vào tỷ lệ thương tật của nạn nhân, hung khí mà người đó sử dụng để gây thương tích, đối tượng bị gây thương tích, hậu quả để lại... thì mới xác định được là bạn của bạn có phải "đi" nữa hay không.  Nếu bạn của bạn chưa hết thời gian thử thách của án trước mà nay lại phạm tội thì đó là tái phạm và sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự.
             Tuy nhiên bạn cũng lưu ý là đối với trường hợp phạm tội thuộc khoản 1, Điều 104 BLHS thì công an chỉ khởi tố khi có đơn yêu cầu của nạn nhân (Điều 105 BLTTHS).  Do vậy, bạn nên khuyên gia đình bạn ấy bồi thường cho nạn nhân và xin họ làm đơn bãi nại.

  • Xem thêm     

    22/10/2011, 09:21:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Tôi rất hiểu tâm trạng của bạn lúc này! Thực tế
    có nhiều trại giam việc quản lý, giáo dục phạm nhân rất tốt, nhiều cán bộ quản giáo rất từ tâm khiến phạm nhân phải nể phục và yêu mến. Tuy nhiên cũng có một số trại tạm giam và trại giam còn nhiều chuyện khác đáng trách hơn là bữa cơm tù... nhưng không dễ xử lý những chuyện như thế. Hi vọng trong tương lai những quy định về quản lý trại giam sẽ chặt chẽ, cụ thể hơn và phạm nhân sẽ được đối xử công bằng, bình đẳng hơn.
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 09:50:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn ban!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 09:43:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì! Chào bạn.
  • Xem thêm     

    20/10/2011, 09:19:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Nếu chỉ là người nghiện ma túy mà chưa bị xử phạt hành chính về tội này hoặc chưa bị đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh thì không phải là tội phạm (coi như là bệnh lý). Tuy nhiên người nghiện ma túy cũng rất dễ phạm các tội phạm liên quan đến ma túy như: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định tại Điều 194 BLHS (nếu trong người hoặc nơi ở của người đó tìm được ma túy, tham gia mua, bán ma túy..); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 197 BLHS; Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 198 BLHS;   

    Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 đã bỏ Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199) 

  • Xem thêm     

    19/10/2011, 09:39:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn bạn!
    Tôi cũng chúc bạn cùng gia đình một ngày lễ 20/10 vui vẻ, hạnh phúc!
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 08:06:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Điều 140 BLHS sửa đổi năm 2009 quy định Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    "1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 4 triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản."
              - Như vậy số tiền chiếm đoạt từ 4 triệu đồng là đã cấu thành tội phạm rồi.
              - Theo thông tin mà bạn đưa ra thì người anh nuôi của bạn đã phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 140 BLHS; Nếu số tiền chiếm đoạt tử 50 trđ trở lên thì có thể thuộc khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 140 BLHS và mức hình phạt cao nhất là TÙ CHUNG THÂN.
              - Gia đình bạn có thể làm đơn tố giác hành vi đó với công an cấp Quận nơi gia đình bạn có hộ khẩu. Sau khi xem xét, Công an sẽ khởi tố vụ án và phối hợp với cảnh sát Angola để giải quyết vụ việc và lấy lại tài sản cho gia đình bạn và các bị hại khác.

  • Xem thêm     

    19/10/2011, 07:53:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nội dung tôi đã trả lời bạn ở trên: Theo thông tin bạn trình bày thì bạn của bạn có đủ yếu tố cấu thành tội phạm đối với tội Cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 BLHS.
            Nếu không phải là "tội phạm có tổ chức" mà chỉ là "đồng phạm giản đơn" thì bạn của bạn thuộc khoản 1, Điều 136 , mức hình phạt từ 1 năm đến 5 năm. Nếu với hoàn cảnh như vậy và có từ 2 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 BLHS và không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 48 BLHS thì có thể chịu mức án là 2-3 năm tù giam.
            Nếu có tình tiết tăng nặng thì có thể mức hình phạt lên tới 5 năm tù giam. Nếu là tội phạm có tổ chức  hoặc tội phạm chuyên nghiệp thì thuộc khoản 2, Điều 136 và mức hình phạt từ 3 năm đến 10 năm. Cụ thể thế nào tùy thuộc vào hồ sơ vụ án (hồ sơ vụ án sẽ quyết định mức án bao nhiêu! bởi "án tại hồ sơ") . Thực tế có những tình tiết tăng nặng nhưng cơ quan tố tụng không chứng minh được thì cũng không có căn cứ xử lý hoặc Bị cáo có thể tạo ra các tình tiết giảm nhẹ để giảm tội cho mình... Có những sự việc, tình tiết đến gia đình bị cáo cũng biết và không ngờ tới (bị cáo nghiện, phạm tội nhiều lần, phạm tội có tổ chức...), đến khi xét xử mới biết con em mình đã hư hỏng từ lâu rồi....Thời điểm vụ án mới thụ lý thì chưa thể nói chắc điều gì.
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 07:35:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Nếu cần Luật sư tham gia bảo vệ bào chữa cho bạn của bạn thì bố hoặc mẹ của bạn bạn phải đến Văn phòng luật sư để gặp trực tiếp Luật sư làm rõ hơn nội dung vụ việc và yêu cầu của gia đình đối với vụ việc đó (muốn Ls tham gia ở giai đoạn tố tụng gì? kết quả như thư thế nào?..). Sau khi cân nhắc, Ls sẽ quyết định là có cung cấp dịch vụ pháp lý hay không và mức thù lao là bao nhiêu.
             Về thù lao Ls thì bạn không đáng lo bởi thù lao LS là công sức mà LS bỏ ra khi thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng. Nếu yêu cầu của gia đình càng cao thì Ls càng phải bỏ nhiều thời gian, công sức để thực hiện công việc, theo đó thù lao càng nhiều... (THÙ LAO LS PHỤ THUỘC VÀO YÊU CẦU CỦA KHÁCH HÀNG).
             Nếu gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, gia đình chính sách hoặc gặp hoàn cảnh khó khăn, éo le thì Ls có thể bào chữa, tư vấn MIỄN PHÍ.
  • Xem thêm     

    18/10/2011, 06:39:52 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

               Vụ việc của bạn đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nguồn tin. Nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì công an sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

             Theo thông tin mà bạn đưa ra thì bạn chỉ là người bị hại. Bạn có quyền cung cấp thông tin về vụ việc để công an xem xét giải quyết chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh về tội phạm. “Một mất mười ngờ” nên bạn của bạn có thể nghi ngờ bạn là thủ phạm. Tuy nhiên, bạn không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Nếu bạn có tội thì nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.

             Công an được đào tạo qua trường lớp, được tích lũy kinh nghiệm để “bắt” tội phạm (nghề), còn tội phạm thì không được đào tạo để “trốn” công an. Do vậy, chỉ có loại tội phạm về chức vụ và phạm tội chuyên nghiệp mới có thể gây khó khăn cho quá trình điều tra, còn mấy loại “trộm cắp vặt” thì công an sẽ sớm tìm ra thôi. Nếu bạn không lấy tiền thì bạn không phải lo lắng gì cả, công an sẽ sớm xác định được thủ phạm và xóa đi nghi ngờ của mọi người.
  • Xem thêm     

    18/10/2011, 06:36:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 20 BLHS quy định về đồng phạm như sau:

    Điều 20. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    Theo thông tin mà bạn đưa ra thì bạn của bạn đi cùng xe với người giật điện thoại và được chia 200.000 đồng sau khi bán chiếc điện thoại đó. Như vậy có đủ căn cứ để xác định hai người đó có cùng ý chí để thực hiện tội phạm nên hai người phạm tội Cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 BLHS, cụ thể như sau:

    Điều 136. Tội cướp giật tài sản

    1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.”

    Như vậy, nếu cơ quan tố tụng chứng minh được trường hợp phạm tội trên là "có tổ chức "(có người chỉ huy, cầm đầu, có sự phối hợp, phân công của từng người…) theo quy định tại khoản 3, Điều 20 thì trường hợp phạm tội sẽ thuộc khoản 2 Điều 136, mức hình phạt từ 3 năm đến 10 năm. Còn nếu không chứng minh được là tội phạm có tổ chức thì hành vi đó chỉ thuộc khoản 1, Điều 136 và mức hình phạt là từ 1 năm đến 3 năm.

    Với tội cướp giật tài sản thì ít khi được hưởng án treo. Trong vụ việc này nếu bạn của bạn chỉ là người ngồi sau và được chia tiền chứ không phải là chủ mưu, cầm đầu thì mức trách nhiệm hình sự sẽ thấp hơn người giật điện thoại. Cụ thể mức hình phạt bao nhiêu còn phụ thuộc vào những tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án. Với thông tin sơ lược mà bạn đưa ra thì chưa thể xác định được mức hình phạt là mấy năm tù.

    Còn việc có thể được tại ngoại hay không phụ thuộc nhiều vào thái độ của bị cáo, có hợp tác với cơ quan điều tra hay không? Hoàn cảnh có thực sự khó khăn hay không. Với tội cướp giật tài sản thì rất hiếm khi được tại ngoại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/10/2011, 09:34:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.               Về trách nhiệm hình sự:

    -                   Khoản 2, Điều 12 BLHS quy định: “người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”;

    Khoản 1, Điều 202 BLHS quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

    Khoản 3, Điều 8 BLHS quy định: “3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”.

    Như vậy, căn cứ vào các quy định pháp luật trên thì em bé gây tai nạn giao thông làm chết 1 người, thuộc khoản 1 Điều 202 BLHS là loại tội phạm nghiêm trọng nên theo khoản 2, Điều 12 BLHS em bé đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    2.               Trách nhiệm dân sự:

    Điều 606 BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau :

    1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

    2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.

    Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

    3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

    Như vậy theo quy định pháp luật trên thì nếu em bé đó có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường thiệt hại. Nếu tài sản riêng không đủ thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường.

    - Mức bồi thường đường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được quy định cụ thể tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cụ thể như sau : «Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

                2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

                 Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                 b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                 - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                 2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                 a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                 b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

    Như vậy, người dưới 16 tuổi gây tai nạn giao thông làm chết 1 người thì không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải bồi thường dân sự thuộc loại bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định tại chương XXI Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao như đã nêu ở trên. Nếu người từ đủ 15 tuổi nhưng dưới 18 tuổi mà không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường thay.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    17/10/2011, 06:54:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     

    Chào bạn!
    Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Đối với trách nhiệm hình sự:
            Với những tình tiết mà bạn nêu ra thì chắc chắn người chém anh em bạn phạm tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS kể cả trong trương hợp thương tích của anh em bạn chưa đến 11% (vì sử dụng hung khí nguy hiểm và gây cố tật cho nạn nhân);
            Anh em bạn cần yêu cầu cơ quan y tế giám định thương tật để làm căn cứ giải quyết vụ án. Tỷ lệ thương tật của anh em bạn sẽ quyết định khung hình phạt thuộc khoản mấy của Điều 104 của bị cáo;
            Nếu cơ quan điều tra chưa khởi tố vụ án thì bạn có quyền làm đơn đề nghị Công an khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 105 BLTTHS;
            Nếu trong quá trình điều tra, cơ quan tố tụng chứng minh được hành vi dùng PHỚ chém người của bị cáo có thể dẫn đến án mạng hoặc mục đích là tước đi sinh mạng của nạn nhân thì bị cáo sẽ bị truy tố về tội Giết người theo quy định tại Điều 93, Bộ luật hình sự.
            Mức hình phạt bao nhiêu phụ thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS và phụ thuộc vào nhân thân của bị cáo. Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây của BLHS:

    Điều 93. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

     

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1.                 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Tỷ lệ thương tật được quy định tại: Bản quy định tiêu chuẩn thương tật (ban hành kèm theo Thông tư số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Liên Bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội "quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới") để làm ví dụ:

    a. Về trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm mất đốt ngoài (đốt 2) của ngón tay cái hoặc làm mất hai đốt ngoài (2+3) của ngón tay trỏ có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (các điểm a và b mục 5, phần IV, Chương I);

    b. Về trường hợp làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm cứng khớp các khớp liên đốt ngón tay giữa (III) ở tư thế bất lợi có tỷ lệ thương tật từ 7% đến 9% (điểm c mục 5, phần IV, Chương I);

    c. Về trường hợp làm giảm chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích làm một mắt giảm thị lực từ 4/10 đến 5/10, mắt kia bình thường có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (mục 7, phần II, Chương VIII);

    d. Về trường hợp làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân

    Ví dụ: gây thương tích để lại sẹo to, xấu ở vùng trán, thái dương có tỷ lệ thương tật từ 6% đến 10% (điểm b, mục 1, phần I, Chương IV).

     (Theo Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao).

    2. Về trách nhiệm dân sự (Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) được quy định tại Nghị quyết03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau:

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.



  • Xem thêm     

    15/10/2011, 07:23:10 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Hành vi của A, B và C phạm tội theo quy định tại Điều 194 BLHS, cụ thể như sau:

    Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

    h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

    i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;

    m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;

    n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

    o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”.

     Ngoài ra bạn thể tham khảo: Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp, ngày 24/12/2007, về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của Bộ luật Hình sự năm 1999 để được biết rõ hơn.

           Với thông tin bạn đưa ra thì chưa thể xác định được là mỗi người chịu hình phạt là bao nhiêu năm tù. Hành vi phạm tội của họ có thể thuộc khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 194 BLHS.

    Số viên ma túy tổng hợp đó sẽ được giám định để biết lượng ma túy chứa trong đó: Nếu từ 30 đến 100gam thì thuộc khoản 3, Điều 194; Nếu trên 100gam thì thuộc khoản 4, Điều 194 BLHS. Ngoài ra việc xác định hình phạt cho mỗi bị cáo sẽ căn cứ vào nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS, vai trò của mỗi bị cáo…

    Trong vụ việc này, cả A, B và C đều thể hiện vai trò của Người thực hành theo quy định tại Điều 20 BLHS. Trong quá trình điều tra, nếu xác định ai trong số họ thực hiện tội phạm tích cực hơn, vai trò quan trọng hơn thì mức hình phạt sẽ cao hơn. Nếu xác định trong số họ có người chủ mưu, cầm đầu thì mức độ trách nhiệm hình sự sẽ cao nhất. Thông thường nếu những trường hợp phạm tội thuộc khoản 4, Điều 194 mà có nhiều người tham gia thì Người chủ mưu, cầm đầu sẽ chịu mức án tử hình, người thực hành chịu mức chung thân, những người còn lại khoảng 15-20 năm tùy thuộc vào nhân thân và vai trò của bị cáo đối với vụ việc đó.

    Tôi và bạn - “Chúng ta” đều không phải là người “trong cuộc”. Không được tiếp xúc với bị can, không được nghiên cứu hồ sơ vụ án (xem bị cáo khai gì, cơ quan tố tụng thu thập được gì…), dựa trên cơ sở một vài tình tiết và quy định của pháp luật để “phỏng đoán” vậy thôi. Để được đảm bảo sự công bằng của pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo thì bạn nên khuyên gia đình các bị can, bị cáo nên mời người bào chữa tham gia vụ án.

  • Xem thêm     

    14/10/2011, 09:11:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

           Tôi nhất trí với ý kiến của Luật sư Phạm Tiến Quyển.
           Nếu hai bên không tự thương lượng được với nhau thì có thể nhờ một bên thứ ba tham gia làm trung gian, hòa giải (có thể là Luật sư hoặc một người có khả năng thuyết phục, dung hòa lợi ích giữa các bên).
           Trường hợp bất đắc dĩ mới phải đưa ra công quyền bởi sự việc xảy ra đều ngoài ý muốn của hai bên, đồng thời một bên là trẻ vị thành niên chứ không giống như những sự việc khác.
  • Xem thêm     

    14/10/2011, 04:42:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 05:01:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

           Tôi đồng ý với ý kiên của Luật sư: Phạm Tiến Quyển đã nêu ở trên!
            Nếu cơ quan tiến hành tố tụng công tâm, khách quan thì không còn gì để nói. Các bên cứ yên tâm chờ đợi kết quả. Còn nếu có đương sự thiếu hiểu biết pháp luật cần phải có sự tư vấn, trợ giúp hoặc thấy có biểu hiện không khách quan của cơ quan tố tụng thì nên mời Luật sư tham gia. Trong trường hợp đương sự là người thuộc hộ nghèo, gia đình có công sẽ được bào chữa, bảo vệ miễn phí. Nếu gặp hoàn cảnh khó khăn thì cũng có thể được Luật sư bào chữa, bảo vệ miễn phí.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 02:32:26 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì. Chào bạn!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 02:32:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Thời gian điều tra khoảng 3, 4 tháng. Sau khi có kết luận điều tra thì hồ sơ được chuyển sang VKS. VKS ra bản cáo trạng rồi chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án để xét xử.
             Thông thường, trong giai đoạn điều tra thì người nhà khó mà vào thăm bị can, bị cáo được!
69 Trang «<646566676869>