Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<53545556575859>»
  • Xem thêm     

    14/04/2012, 05:40:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
               Điều 133 BLHS quy định về Tội cướp tài sản như sau:
    "Điều 133. Tội cướp tài sản

    1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.".
                Như vậy, theo quy định của pháp luật thì phải có yếu tố dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng KHÔNG THỂ CHỐNG CỰ ĐƯỢC nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới phạm tội Cướp tài sản.

               Theo thông tin bạn nêu thì sự việc xảy ra giữa anh bạn với ông A có dấu hiệu sử dụng vũ lực "ông A xúc phạm anh tôi nên anh tôi có tát ông A một cái.." tuy nhiên chưa đến mức làm ông A "không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản": Hai bên lập biên bản thỏa thuận về việc trả lại tiền, khi đó còn uống bia, nói chuyện với nhau, chờ mang tiền từ nhà đến trả... nên chưa có căn cứ xác định ông A bị "tê liệt ý chí" do vậy hành vi của các anh bạn chưa cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.
               Nếu các anh bạn dùng vũ lực để tấn công, uy hiếp ông A để đòi tiền mua máy, sửa máy: Sử dụng đông người hò hét, chửi bới, dùng hung khí nguy hiểm để dọa nạt, đánh chửi...(chiếm đoạt tài sản) chưa đến mức làm ông A "không thể chống cự được" nhưng buộc phải giao tài sản cho các anh bạn thì mới có thể phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Điều 135 BLHS.
               Nếu không thuộc các trường hợp trên thì chỉ là thỏa thuận dân sự, các anh bạn không phạm tội.
               Bạn có chứng kiến việc đó không? Tại cơ quan điều tra thì ông A khai thế nào? Các anh bạn khai thế nào? Tố tụng ở nước ta hiện nay thường trọng chứng hơn trọng cung, án tại hồ sơ. Do vậy, các anh bạn có phạm tội hay không còn phụ thuộc vào chứng cứ, các lời khai của các bên trong hồ sơ vụ án. Ở đây cần làm rõ việc các anh bạn có sử dụng vũ lực hay không và mức độ sử dụng vũ lực đến đâu? Ông A có bị khống chế bởi các anh của bạn hay không? Gia đình bạn có thể mời luật sư tham gia vụ việc để tư vấn pháp lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các anh bạn và tránh việc tốn kém tiền của một cách không cần thiết...
               Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để để được luật sư tư vấn cụ thể hơn.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 10:14:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn của các luật sư ở trên!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 05:20:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn nguyenlinh2512!
    Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

    "Điều 141. Người đại diện theo pháp luật

    Người đại diện theo pháp luật bao gồm:

    1. #ff0000;">Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

    2. Người giám hộ đối với người được giám hộ;

    3. Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

    4. Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    5. Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;

    6. Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;

    7. Những người khác theo quy định của pháp luật.".
            Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì cả cha và mẹ đều là người đại diện theo pháp luật của con (nếu còn sống và có đầy đù năng lực hành vi dân sự).
             Trong vụ việc mà bạn nêu, nếu chỉ có cha rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 105 BLTTHS mà mẹ không rút đơn thì có nghĩa là mẹ (người có đơn yêu cầu khởi tố) vẫn yêu cầu khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 105 BLTTHS (người mẹ là người đại diện theo pháp luật của bị hại, người có quyền yêu cầu khởi tố vụ án và không rút đơn) nên các cơ quan tiến hành tố tụng không thể chỉ căn cứ vào đơn của cha bị hại để đình chỉ giải quyết vụ án được. Thực tế, trong những trường hợp như thế này vụ án chỉ được đình chỉ nếu người mẹ có văn bản đồng ý xin rút đơn.

  • Xem thêm     

    12/04/2012, 03:06:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn nguyengianghia!
           Nếu vụ việc này được cơ quan Công an xác minh, điều tra đúng như bạn trình bày thì em bạn có thể phạm tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS, còn người ép em bạn viết giấy nhận nợ số tiền 2 tỷ có thể phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Điều 135 hoặc tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS (tùy thuộc vào mức độ dùng vũ lực đến đâu). Để giải quyết vụ việc đó gia đình bạn có thể trả cho họ 1 tỷ. Còn 01 tỷ kia nên báo công an để xử lý theo pháp luật (trong vụ việc này xử lý tội cưỡng đoạt tài sản dễ hơn xử lý tội đánh bạc). Vợ con của em bạn không biết về việc đó và cũng không tham gia vào việc đó nên không chịu trách nhiệm gì.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:57:18 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì cậu của bạn đã phạm tội theo quy định tại Điều 194 BLHS, mức hình phạt được quy định như sau:

    Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

    h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

    i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;

    m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;

    n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

    o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

                  2. Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120, Điều 121 BLTTHS, cụ thể như sau:
    Căn cứ Điều 120 và Điều 121 Bộ luật tố tụng Hình sự hiện hành thì thời hạn tạm giam để điều tra theo từng trường hợp như sau:
    1. Thời hạn tạm giam bị can bị giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
    2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam.
    Việc gia hạn tạm giam được qui định như sau:
    a. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng.
    b. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng.
    c. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng.
    d. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
    3. Trong trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 165 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
    Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
    a. Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng.
    b. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.
    4. Trong trương hợp vụ án do VKS trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng. nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. VKS hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày CQĐT nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
    5. Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều tra thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại Điều 119 của Bộ luật này. Thời hạn điều tra được tính từ khi CQĐT nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
    6. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, CQĐT có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này.
    Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, để điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra nêu trên.
    Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
                      Như vậy, nếu cậu bạn phạm tội thuộc trường hợp: Nghiêm trọng thì tổng thời gian tạm giam để điều tra là 6 tháng; Rất nghiêm trọng thì tổng thời hạn điều tra là 9 tháng; Đặc biệt nghiêm trọng thì tổng thời gian tạm giam để điều tra là 16 tháng. Ngoài thời hạn tạm giam để điều tra, còn thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung...
                      Sau giai đoạn điều tra là giai đoạn truy tố, tổng thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố với các loại tội phạm tương ứng là: 20 ngày + gia hạn 10 ngày; 30 ngày + gia hạn 15 ngày; 30 ngày + gia hạn 30 ngày...
                     Sau giai đoạn truy tố là xét xử: Thời hạn tạm giam để xét xử sở thẩm với các loại tội phạm tương ứng là: 45 ngày; 2 tháng 15 ngày; 3 tháng 15 ngày...
                     Nói chung, với số lượng ma túy được thu giữ như vậy thì cậu của bạn sẽ bị tạm giam và chấp hành hình phạt tù giam liên tục cho đến khi chấp hành xong hình phạt (sẽ không có tại ngoại). Cậu bạn chỉ có thế được xem xét giảm nhẹ hình phạt nếu có những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 BLHS. Gia đình bạn có thể mời luật sư tham gia vụ án để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho cậu của bạn theo quy định pháp luật.
  • Xem thêm     

    11/04/2012, 08:57:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                 Hành vi đó có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Nếu họ cố tình không trả lại tài sản cho bạn thì bạn có thể báo công an để xử lý người đó theo pháp luật.
  • Xem thêm     

    11/04/2012, 09:15:31 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo thông tin bạn nêu thì những hành vi đó của em bạn chưa đến mức bị xử lý về hình sự. Tuy nhiên, với những hành vi và tính cách như vậy thì em bạn rất dễ phạm tội. Do vậy, gia đình bạn cần phải có những biện pháp cứng rắn để điều chỉnh hành vi của em bạn. Nếu gia đình không thể xử lý được thì có thể yêu cầu chính quyền địa phương và công an phối hợp để giáo dục đứa em đó của bạn.  Có những hành vi chưa đến mức xử lý hình sự nhưng một lần đã bị xử lý hành chính mà lần sau còn vi phạm thì có thể bị xử lý hình sự.
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 04:14:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
             - Những đối tượng chiếm đoạt tài sản của bạn vừa phải đi tù, vừa có trách nhiệm trả lại tài sản của bạn. Bị can, bị cáo không tự nguyện trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại thì không được hưởng tình tiết giảm nhẹ và cũng không làm mất trách nhiệm bồi thường tài sản. Tòa án vẫn tuyên án hình sự và trách nhiệm dân sự là trả lại tài sản;
             - Tòa án sẽ xác định giá trị tài sản căn cứ vào giá trị khi mua và khấu hao do thời gian bạn đã sử dụng;
             - Hành vi đó có thể cấu hành tội cưỡng đoạt tài sản hoặc cướp tài sản theo Điều 133 BLHS;
             - Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, xác định những bị cáo đó có trách nhiệm bồi thường cho bạn thì bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành án để thu hồi tài sản của họ, phát mại để trả lại tiền cho bạn.
  • Xem thêm     

    09/04/2012, 10:51:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn cần lưu những tin nhắn này lại và báo cho công an để được xem xét giải quyết. Tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà những người nhắn tin quấy rối đó sẽ bị xử lý theo pháp luật.
  • Xem thêm     

    09/04/2012, 10:14:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                     Nếu chỉ xem người khác đánh bạc thì chưa phạm tội. Khi bắt vụ đánh bạc thì những tài sản mang theo người của người đánh bạc và xe, điện thoại đều bị thu giữ. Những thứ đó thường được xác định là tang vật, công cụ, phương tiện phạm tội.
  • Xem thêm     

    08/04/2012, 08:30:41 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn dzungjudge!
               Việc A có phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS hay không phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mua bán xe giữa A với chủ xe. Theo nội dung bạn trình bày thì chiếc xe đó không (chưa) thuộc quyền sở hữu của A. Tại thời điểm lấy xe, chiếc xe đang thuộc sự quản lý của Cơ quan công an.
                Đặc điểm cơ bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý. Điều đó có nghĩa là về khách quan hành vi chiếm đoạt tài sản của tội này không cho phép chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp biết hành vi chiếm đoạt xảy ra, còn về chủ quan người phạm tội cũng luôn có ý thức muốn che giấu hành vi phạm tội của mình. Sự che giấu hành vi chiếm đoạt có thể được thể hiện ở hình thức người phạm tội che giấu toàn bộ hành vi phạm tội của mình hoặc chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của hành vi.
                Do vậy, về mặt lý thuyết thì A đã có hành vi trộm cắp tài sản. Thực tế cho thấy nếu hợp đồng mua bán giữa A với chủ xe đã được công chứng và đang tiến hành thủ tục sang tên (nhưng chưa hoàn tất), A có giấy giao xe hoặc ủy quyền sử dụng xe và sử dụng công khai, ngay tình thì mới có cơ hội thoát tội hoặc giảm nhẹ hình phạt. Còn nếu không có các yếu tố trên (Hợp đồng mua bán viết tay, không có ủy quyền giao xe hoặc chủ xe không thừa nhận việc mua bán với A) thì khả năng phạm A tội rất cao bởi: Công an sẽ tìm chủ xe để làm việc. Nếu công an không quản lý được chiếc xe đó trong thời gian giải quyết, để mất và sau này chủ xe bắt đền, đòi tài sản thì ai sẽ có trách nhiệm trả tài sản cho chủ xe?!
  • Xem thêm     

    05/04/2012, 02:27:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào các bạn và luật sư đồng nghiệp!
                   Theo Quyết định1123/2011/QĐ-CTN, người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn (gọi là phạm nhân) được đề nghị đặc xá như sau:

    * Điều kiện được đề nghị đặc xá
    1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:
    a) Chấp hành tốt Nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
    b) Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;
    c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác trừ những phạm nhân không bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia đình không còn khả năng thực hiện.
    2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều này đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần tư thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn; ít nhất là mười hai năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;
    b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân; được tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;
    c) Khi phạm tội là người chưa thành niên;
    d) Là người từ 70 tuổi trở lên;
    đ) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;
    e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;
    e) Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam.
    * Các trường hợp không đề nghị đặc xá:
    Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 3 của Quyết định này không được đề nghị đặc xá nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
    2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
    3. Trước đó đã được đặc xá;
    4. Có từ hai tiền án trở lên;
    5. Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia;
    6. Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên sáu năm đối với người được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 3; trên tám năm đối với người được quy định tại khoản 2, Điều 3 Quyết định này.
    7. Phạm các tội về ma túy bị phạt tù đến bảy năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên một năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên bảy năm đến mười lăm năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên hai năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên mười lăm năm, tù chung thân mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên ba năm;
    8. Có căn cứ khẳng định là đã sử dụng trái phép chất ma túy;
    9. Đồng thời phạm hai tội: giết người và cướp tài sản; giết người và hiếp dâm; giết người và hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản và hiếp dâm; cướp tài sản và hiếp dâm trẻ em;
    10. Phạm tội giết người có tổ chức; cướp tài sản có tổ chức hoặc có sử dụng vũ khí; cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp; cướp giật tài sản có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
    11. Có một tiền án hoặc đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục mà bị kết án phạt tù về một trong các tội sau đây: về ma túy; giết người; hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; cướp giật tài sản; cưỡng đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; mua bán phụ nữ; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; cố ý gây thương tích có tính chất côn đồ hoặc băng, nhóm thanh toán lẫn nhau.
  • Xem thêm     

    03/04/2012, 09:53:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Chỉ cần có hành vi "giựt đồ" là cấu thành tội phạm rồi. Nếu chưa giựt được tài sản thì chưa đạt về mục đích nhưng đã hoàn thành về hành vi=> Phạm tội.
  • Xem thêm     

    03/04/2012, 09:49:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Công dân đó có bị xử tiếp ở VN hay không còn tùy thuộc vào nội dung điều ước quốc tế ký giữa VN và TQ.

  • Xem thêm     

    01/04/2012, 08:42:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn tham khảo các quy định sau đây của BLHS:

    Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

    1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

    Điều 6. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

    1. #ff0000;">Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này.

    #ff0000;">Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    2. Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.

  • Xem thêm     

    01/04/2012, 09:55:42 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Theo thông tin bạn nêu thì Hợp đồng giữa công ty bạn và Công ty X là hợp đồng cho thuê tài chính. Theo đó, công Ty X được sử dụng số tiền do Công ty bạn giao để mua và sử dụng xe chuyên dùng, đồng thời trả tiền thuê cho Công ty của bạn theo thỏa thuận. Nếu nay, Công ty X vi phạm hợp đồng, không trả tiền thuê và tự ý định đoạt chiếc xe chuyên dùng đó nhằm chiếm đoạt tài sản của Công ty bạn thì Giám đốc A mới có thể phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Còn nếu Công ty X chỉ khó khăn về tài chính, không có tiền để trả tiền thuê, tài tản thuê vẫn còn thì chỉ là quan hệ dân sự (kinh tế), vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
             Công ty bạn có thể gửi đơn trình báo toàn bộ sự việc tới Công an cấp quận huyện và Công an cấp tỉnh nơi Công ty X có trụ sở để xem xét. Nếu sau khi kiểm tra, xác minh nguồn tin theo quy định tại Điều 103 BLTTHS mà Công an trả lời là ông A có dấu hiệu tội phạm thì Công ty của bạn có thể khởi kiện Công ty X tranh chấp Hợp đồng cho thuê tài chính để Tòa án nơi có trụ sở của Công ty X giải quyết theo quy định pháp luật.
             Công ty của bạn là Công ty cho thuê tài chính nên bộ phận pháp chế (hoặc luật sư của Công ty) hoàn toàn có khả năng để thực hiện thủ tục khiếu kiện đối với vụ việc trên. Nếu cần thiết thì Công ty bạn có thể mời thêm Luật sư để giải quyết vụ việc, thu hồi số vốn đầu tư đó.
  • Xem thêm     

    31/03/2012, 08:45:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Gia đình X đã tự nguyện bồi thường cho bạn số tiền đó thì bạn có quyền sử dụng mà không phải chờ đến khi vụ án kết thúc. Bạn có thể làm đơn bãi nại gửi cho các cơ quan tố tụng. Khi xét xử, nếu bạn không đến thì Tòa án cũng vẫn xét xử vắng mặt bạn.
  • Xem thêm     

    31/03/2012, 09:32:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Pháp luật luôn khuyến khích các bên tự thương lượng, hòa giải với nhau về các vấn đề liên quan đến tài sản (trừ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước). Việc bạn thỏa thuận với gia đình X không trái pháp luật. Tuy nhiên, vụ việc này không thuộc trường hợp quy định tại Điều 105 BLTTHS nên việc bạn rút đơn hoặc làm đơn bãi nại thì vụ án vẫn tiếp tục, bị cáo chỉ có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
            Công an trả lời bạn như vậy là không đúng và thiếu trách nhiệm. Trách nhiệm của công an là giải quyết vụ việc để giáo dục, cải tạo người có tội và bảo vệ quyền lợi của người dân (bị hại). Nếu các bên đã thỏa thuận được về phàn trách nhiệm dân sự thì công an phải khuyến khích và tạo điều kiện cho họ chứ sao lại nói là "hư hồ sơ". Hồ sơ chẳng qua chỉ là văn bản, tài liệu để ghi lại sự việc chứ làm sao có thể so sánh với tài sản và số mệnh của một con người!
            Nếu công an thu giữ được chiếc xe đó thì bạn sẽ được nhận lại xe sau khi kết thúc điều tra. Bạn tham khảo Điều 105 BLTTHS sau đây:

    Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

  • Xem thêm     

    29/03/2012, 10:27:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Những giao dịch dân sự pháp luật luôn khuyến khích các bên tự thỏa thuận, thương lượng, hòa giải. Nếu không thể tự thỏa thuận, hòa giải được thì có thể nhờ pháp luật can thiệp. Do vậy bạn có thể gặp N để giải quyết, nếu không được thì hãy đưa ra pháp luật.
  • Xem thêm     

    29/03/2012, 09:08:38 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                    Bạn cùng những người đã đưa tiền cho Phương và N có thể nộp đơn trình báo tới Công an phường và Công an Quận nơi giao nhận tiền. Trong đơn trình báo cần nêu rõ sự việc và thông tin của người trình báo. Vụ việc của bạn có thể có dấu hiệu của tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là lạm dụng tín nhiệm.
                    Trong vụ việc này, N sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm. Nếu Phương bị khởi tố thì N có thể cũng bị khởi tố (đồng phạm).
69 Trang «<53545556575859>»