Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

129 Trang «<949596979899100>»
  • Xem thêm     

    19/04/2012, 04:04:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
                Nếu trong hợp đồng đặc cọc không thỏa thuận thời hạn thanh toán tiền mua bán nhà thì thời hạn sẽ được thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán nhà. Việc trả tiền mua nhà là nghĩa vụ của Bên mua. Nếu bên mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bên bán mới đồng thời có nghĩa vụ giao nhà và đăng ký sang tên.
    Bạn xem lại thời hạn đặt cọc và mục đích đặt cọc do hai bên thỏa thuận. Nếu đến hết thời hạn đặt cọc thì hai bên phải ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán. Nếu Bên đặt cọc không ký kết hợp đồng theo thời hạn thỏa thuận thì họ mất tiền đặt cọc. Khi đó bạn được quyền bán cho người khác.
  • Xem thêm     

    18/04/2012, 09:10:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Biết được tâm lý của bạn như vậy nên họ cứ "làm tới"! Bạn có thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thay bạn để tránh ảnh hưởng đến công việc của mình. Nếu bạn "chỉ cần" lấy lại khoản tiền gốc mà không cần lấy tiền phạt cọc thì có thể thỏa thuận với bên kia để họ trả đủ tiền đặt cọc ngay tại Tòa. Nếu bạn không yêu cầu trả tiền ngay, mà phải chờ đến khi Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và Cơ quan Thi hành án cưỡng chế thi hành án thì có thể đến vài năm nữa bạn mới lấy lại được tiền.
             Nếu họ không chịu trả lại đủ tiền cọc cho bạn ngay tại phiên tòa thì bạn có thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng và số tiền phạt cọc dùng để trả thù lao cho người mà bạn ủy quyền, đảm bảo công bằng của pháp luật.
  • Xem thêm     

    18/04/2012, 08:57:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Thông thường các địa phương đều có Quyết định của UBND tỉnh quy định về mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng cho địa phương mình, trong đó có quy định về mật độ cây trồng để xác định mức độ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Bạn xem Quyết định của UBND tỉnh (Thái Bình?) ban hành quy định đơn giá cây trồng, vật nuôi áp dụng trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh... để biết thông tin chi tiết.
    - Bạn có thể gửi đơn yêu cầu, kiến nghị đến Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng để được giải quyết theo pháp luật
     
  • Xem thêm     

    18/04/2012, 08:18:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            1. Vị Thẩm phán đó "trả lời" bạn như vậy là không có căn cứ pháp luật và không đúng với thủ tục tố tụng bởi các lý do sau:
    - Về nguyên tắc của Tố tụng dân sự là Tòa án xem xét giải quyết vụ án trên cơ sở yêu cầu của đương sự và những chứng cứ do đương sự cung cấp trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Đến khi mở phiên Tòa để giải quyết vụ án, Tòa án vẫn phải nghe lời trình bày, tranh luận của các bên, xem xét các chứng cứ mà các đương sự cung cấp tại phiên Tòa.. họp "nghị án" rồi mới có thể "tuyên" án là ai đúng, ai sai. Mới chỉ trong giải đoạn đầu của vụ án thì chưa thể khẳng định "như đanh đóng cột" như vậy được.
    - Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán "không được phép" nói là Bên này đúng, Bên kia sai để các đương sự phải thỏa thuận với nhau theo ý kiến của Thẩm phán. Như vậy là không khách quan, không công tâm. Trong quá trình giải quyết vụ án, dù thẩm phán, luật sư giỏi đến mấy thì cũng chỉ "nhận thấy" "dự đoán" mà thôi. Nhiều vụ án phức tạp, phút cuối đương sự mới xuất trinh chứng cứ thì không thể đoán được kết quả sẽ đi đến đâu. Thậm chí những án đã có hiệu lực pháp luật rồi vẫn còn bị hủy, sửa theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm, Thủ tục đặc biệt.
             2. Điều 358 Bộ luật dân sự quy định: “đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự”.
              Như vậy, đặt cọc của bạn chỉ là một biện pháp đảm bảo để ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng khi có đủ điều kiện chuyển nhượng (bên chuyển nhượng có GCN QSD đất) chứ không phải là thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật thì việc đặt cọc không bắt buộc phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bạn có thể yêu cầu Vị thẩm phán đó chỉ ra điều luật cụ thể?!). Do vậy, hợp đồng đặt cọc của bạn không thể vô hiệu bởi lý do thửa đất chưa có giấy chứng nhận.
  • Xem thêm     

    17/04/2012, 10:12:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Nếu các con của em gái bạn chưa trưởng thành mà em rể bạn khởi kiện yêu cầu các cháu bạn phải sang tên nhà đất theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự thì Tòa án sẽ không giải quyết. Nếu sau khi các con của em gái bạn đã đủ tuổi trưởng thành mà em rể bạn không trả lại tài sản thì khi đó các cháu của bạn mới có thể khởi kiện đòi tài sản để Tòa án giải quyết.
  • Xem thêm     

    17/04/2012, 08:33:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    17/04/2012, 12:06:45 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
           Theo thông tin bạn nêu thì ông bà nội bạn có 10 ngôi nhà và 10 người con (cha bạn là thứ 10), Sau khi ông bà bạn qua đời, 10 căn nhà đó đã được phân chia cho mỗi người con 1 căn nhà của cha bạn do bác 4 sử dụng. Đến nay có tranh chấp giữa gia đình bạn với bác 4. 
           Như vậy, nếu ông bà bạn chết chưa quá 10 năm thì cha bạn có thể khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông bà nội bạn.
           Nếu đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế mà các anh chị em vẫn thừa nhận là di sản đã được phân chia và những người được chia đã quản lý, sử dụng phần của mình (có nguời được cấp GCN) thì cha bạn vẫn còn cơ hội đòi lại căn nhà đó.
  • Xem thêm     

    16/04/2012, 09:46:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bác!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bác như sau:
                              Theo thông tin bác nêu thì nguồn gốc thửa đất đó là của ông Phạm Xanh. Vợ chồng ông Xanh qua đời không để lại di chúc nên quyền thừa kế thuộc về con gái duy nhất là bà Chu. Sau này bà Chu qua đời thì thửa đất đó thuộc về con trai bà Chu là ông Trần Sửu. Năm 1962 ông Trần Sửu "giao lại" đất cho họ Phạm quản lý nhưng nay không còn giấy tờ gì về việc ông Sửu "hiến" đất cho dòng tộc họ Phạm nên chưa có căn cứ xác định thửa đất đó là của họ Phạm (giấy tờ bị cháy từ năm 1968?).
                              Việc họ Phạm làm ma, cúng giỗ cho ông Xanh là đạo hiếu, tình nghĩa họ hàng nhưng không vì thế mà thửa đất do ông Xanh để lại thành đất của Họ Phạm.
                               Nếu họ Phạm có những chứng cứ khác chứng minh là ông Sửu đã "hiến" đất cho Họ Phạm làm nhà thờ hoặc tặng cho họ Phạm thửa đất đó thì họ Phạm mới có cơ hội tiếp tục được sử dụng thửa đất đó.
                              Có một căn cứ pháp lý duy nhất là Họ Phạm đã được cấp GCN QSD đất. Vậy họ Phạm phải chứng minh căn cứ pháp lý để được cấp GCN đó (sự kiện tặng cho của ông Sửu cho họ Phạm năm 1962) một cách hợp pháp. Nếu không chứng minh được căn cứ thì GCN QSD đất cấp cho họ Phạm là không đúng pháp luật bởi đất đó có nguồn gốc rõ ràng là của cụ Xanh truyền đời cho con cháu.
  • Xem thêm     

    16/04/2012, 09:28:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                   Thửa đất tranh chấp có thể là tài sản chung của ông bà nội bạn hoặc là tài sản của hộ gia đình. Nếu ông nội bạn mất đi mà không có di chúc thì phần di sản của ông nội bạn thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của ông nội bạn (bà nội và các con của ông bà...).
                   Theo quy định của pháp luật thì khi khai nhận di sản thừa kế của ông nội bạn, bắt buộc phải có sự đồng ý của tất cả các thừa kế. Thông tin bạn nêu thì  lúc tiến hành thủ tục khai nhận, phân chia di sản của ông bạn đã không đủ chữ ký của các thừa kế. Do vậy, GCN QSD đất cấp cho bà nội bạn là không hợp pháp, đồng thời việc tặng cho từ bà nội bạn cho bạn cũng không hợp pháp. Nếu có tranh chấp thì Tòa án có thể sẽ tuyên bố các giao dịch đó là vô hiệu và  kiến nghị UBND hủy bỏ GCN QSD đất đã cấp cho bạn và bà bạn.
                    Tuy nhiên, nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà những người đã ký vào biên bản khai nhận di sản thừa kế để nhường quyền thừa kế cho bà bạn vẫn đồng ý nội dung văn bản đó, đồng thời bà bạn vẫn đồng ý tặng cho bạn thửa đất đó thì bạn chỉ phải trả lại một phần thửa đất đó có người chú, bác đang khởi kiện đó.
                   Nếu vụ việc kéo dài đến khi bà nội bạn qua đời không để lại di chúc mới có tranh chấp hoặc các cô, chú khác cùng muốn đòi lại đất thì vụ việc còn có thể phức tạp hơn. Do vậy, bạn cần tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của các cô, chú, bác để kết quả vụ án thuận lợi hơn cho bạn.
  • Xem thêm     

    16/04/2012, 05:13:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                 1. Trước tiên có thể khẳng định là UBND xã "phán quyết" với vụ việc tranh chấp đất đai của gia đình bạn như vậy là không đúng pháp luật. Theo quy định của pháp luật về đất đai, dân sự từ trước tới nay đều không quy định UBND xã có thẩm quyền giao đất, công nhận quyền sử dụng đất. Thậm chí UBND xã cũng không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (chỉ có thẩm quyền hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003). Do vậy, UBND xã tự đứng ra giải quyết tranh chấp đất đai của gia đình bạn với gia đình bác bạn là không đúng thẩm quyền. Gia đình bạn có thể khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND xã trong việc giải quyết tranh chấp đất đai trên.
                  2. Cần xem lại hồ sơ địa chính để tìm hiểu về nguồn gốc đất. Nếu đất đó có nguồn gốc là ông bà bạn khai hoang từ trước 15/10/1993, sau đó gia đình bạn mới sử dụng thì gia đình bạn chưa đủ căn cứ để xác lập quyền sử dụng đất (trừ trường hợp có văn bản tặng cho của ông bà bạn). Nếu trong hồ sơ địa chính không có tên tuổi của ông, bà bạn đồng thời gia đình bạn sử dụng ổn định, liên tục từ trước 15/10/1993 thì có thể được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
                 3. Nếu đến nay, thửa đất đó vẫn chưa có bất cứ một loại giấy tờ nào theo quy định tại Điều 50 luật đất đai năm 2003 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về UBND huyện (Điều 136 Luật đất đai). Do vậy, mẹ con bạn có thể gửi đơn đến UBND huyện để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    15/04/2012, 06:46:01 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
             Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau;
    1. Điều kiện tách thửa đất tại Hà Nội:
           Theo quy định tại khoản 1, Điều 3 Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 của UBND TP Hà Nội thì diện đất ở tối thiểu được phép tách thửa và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi thửa đất được hình thành từ việc tách thửa và thửa đất còn lại sau khi tách thửa nếu đảm bảo các điều kiện sau: a) Có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên; b) Có diện tích không nhỏ hơn 30m2/thửa.
           Như vậy, theo quy định của pháp luật (UBND tp Hà Nội) thì diện tích 70m2 là đủ diện tích để tách thửa nếu mặt tiền đảm bảo đủ 3m, chiều rộng phía trong 3m, có ngõ đi. Nếu thửa đất của gia đình bạn đủ điều kiện tách thửa theo quy định tại Điều 3 Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND thì gia đình bạn có thể thực hiện thủ tục tách thửa.

    2. Thủ tục tách thửa:
          Điều 35 Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội quy định về việc cấp giấy chứng nhận trong trường hợp thực hiện tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân, như sau:
           Người sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp một bộ hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận, huyện, thị xã. Hồ sơ gồm:
           - Đơn xin tách thửa đất (theo mẫu);
           - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (bản chính);
           - Văn bản chia tách thửa đất, văn bản chia tách quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chung của hộ gia đình hoặc của nhóm người cùng sử dụng đất, cùng sở hữu tài sản gắn liền với đất;

           Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (trường hợp phải trích đo địa chính, thời hạn giải quyết không quá 30 ngày), Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất kiểm tra, trích đo, viết Giấy chứng nhận, Phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định, trình Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã ký cấp Giấy chứng nhận.

           Sau khi người sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trả Giấy chứng nhận (thời hạn một ngày làm việc kể từ khi nhận được đủ chứng từ chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ tài chính)

           Như vậy, gia đình bạn cần thực hiện thủ tục đo vẽ hồ sơ kỹ thuật thửa đất đối với diện tích đất của từng nhà; Rồi nộp hồ sơ vào Phòng TN&MT Long Biên để xin phép tách thửa; Sau khi có Công văn cho phép tách thửa thì đến Phòng, Văn phòng công chứng để ký kết Hợp đồng, văn bản chia quyền sử dụng đất; Cuối cùng nộp hồ sơ vào Văn phòng đăng ký QSD đất quận Long Biên để được cấp GCN QSD đất cho từng gia đình.
  • Xem thêm     

    15/04/2012, 06:28:18 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn !
    Luật sư Đặng Văn Cường, trả lời bạn như sau:
             1. Theo quy định tại Điều 66, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP thì từ ngày 01/01/2008 bắt buộc phải có GCN QSD đất mới thực hiện được thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
             2. Thửa đất ao cũng phải có GCN QSD đất như các loại đất khác thì mới được phép chuyển nhượng;
             3. Nếu thửa đất đó có Quyết định giao đất, phân đất, Giấy tờ mua bán, chuyển nhượng; Bản án, quyết định của Tòa án... hoặc sử dụng ổn định, liên tục trước 15/10/1993 theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai thì mới có thể được cấp GCN QSD đất. Thửa đất ao đó chỉ có Phiếu điều tra nguồn gốc đất mà không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì chưa đủ điều kiện được cấp GCN QSD đất.
             Bạn có thể tham khảo các trường hợp được cấp GCN QSD theo quy định tại Điều 50 luật đất đai năm 2003. Nếu thửa đất đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 50 Luật đất đai thì mới có thể được cấp GCN QSD đất và bạn mới có thể được nhận chuyển nhượng một cách hợp pháp theo quy định của pháp luật. Nếu thửa đất chưa có GCN hoặc không đủ điều kiện cấp GCN mà bạn vẫn nhận chuyển nhượng (viết tay) thì bạn phải chấp nhận rủi ro.
            Hơn nữa, đất ao là đất nông nghiệp, thời hạn sử dụng là 20 năm, mục đích sử dụng là nuôi trồng thủy sản. Nếu bạn muốn xây nhà thì phải xin chuyển mục đích sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
            Do vậy, bạn cần phải cân nhắc trước khi quyết định việc mua bán, chuyển nhượng.
  • Xem thêm     

    13/04/2012, 09:29:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn hỏi về đăng ký TẠM TRÚ - KT3, chứ không phải hỏi về thủ tục đăng ký THƯỜNG TRÚ - Chuyển hộ khẩu (KT1)?
            Để phân biệt các "KT.." Ban có thể tham khảo nội dung sau đây: http://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20070702193256AAUmXOC     hoặc:  http://www.google.com.vn/giaidap/thread?tid=32417c6d03fb3e17&pli=1

    "Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình chọn

    - KT1 là cái sổ hộ khẩu của bạn.
    - KT2 : ví dụ hộ khẩu thường trú của bạn là ở Q1, nhưng hiện bạn sinh sống ở Q3, khi đó bạn đăng ký tạm trú dài hạn tại Q3, và cái giấy đăng ký này chính là KT2.
    - KT3 : hộ khẩu thường trú của bạn ở Đồng Nai, nhưng bạn sinh sống ở Tp. HCM, khi đó bạn đăng ký tạm trú dài hạn tại Tp.HCM, cái giấy đăng ký này chính là KT3.
    - KT4: hộ khẩu bạn ở Đồng Nai, nhưng bạn đến Tp. sống trong thời gian ngắn, và muốn đăng ký tạm trú ngắn hạn (3tháng, 6 tháng, 1năm..). đây chính là cái KT4".
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 10:12:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn tìm hiểu quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và hướng dẫn của UBND cấp tỉnh nơi có đất để có câu trả lời cụ thể.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:26:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Các luật sư đã tư vấn đầy đủ cho bạn, ban có thể nêu tiếp câu hỏi để được luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:05:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

                Chào bạn!
                Các luật sư đã tư vấn cụ thể cho bạn. Bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 21 và một số quy định khác của BLTTDS sửa đổi năm 2011 để có thông tin cụ thể hơn. Luật này có hiệu lực từ 01/01/2012.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 08:58:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân theo quy định của pháp luật. Bà B có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của ông A hoặc tranh chấp đất đai với ông A nếu việc xây dựng đó ảnh hưởng đến quyền lợi của bà B. Sau khi có đơn của bà B thì UBND xã sẽ xem xét nội dung đơn thư đó và có văn bản trả lời bà B theo luật khiếu nại, tố cáo. Nếu phát hiện hành vi xây dựng trái phép của ông A thì UBND căn cứ vào Luật xây dựng và các văn bản hướng dẫn để xử lý. Nếu bà B tố cáo sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự, nhân phầm hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông A thì mới có thể bị xử lý về tội vu khống.
    Bạn lưu ý viết nội dung câu hỏi bằng tiếng Việt, có dấu theo quy định.

  • Xem thêm     

    12/04/2012, 04:09:04 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn là đất nông nghiệp nên không đủ điều kiện để được hỗ trợ tái định cư. Bạn có thể tham khảo quy định pháp luật sau đây của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP:
                "Điều 19. Hỗ trợ tái định cư

    1. Nhà ở, đất ở tái định cư được thực hiện theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư.

    Đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở mà không có chỗ ở nào khác thì được giao đất ở hoặc nhà ở tái định cư.

    Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở, nhà ở tái định cư mà số tiền được bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá trị một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch đó; trường hợp không nhận đất ở, nhà ở tại khu tái định cư thì được nhận tiền tương đương với khoản chênh lệch đó.

    2. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở mà tự lo chỗ ở thì được hỗ trợ một khoản tiền bằng suất đầu tư hạ tầng tính cho một hộ gia đình tại khu tái định cư tập trung trường hợp đã được nhận khoản tiền hỗ trợ tái định cư quy định tại khoản 1 Điều này.

    3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể tại địa phương quy định về suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.".

  • Xem thêm     

    12/04/2012, 03:24:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                 1. Theo thông tin bạn nêu thì ngõ đi đó được các bên cùng sử dụng từ năm 1983. Trong quá trình kê khai đăng ký lại quyền sử dụng đất theo Chỉ thị 299/TTg và các thời kỳ đo đạc bản đồ sau này các Bên đều thừa nhận là ngõ đi chung và không có tranh chấp gì. Thậm chí khi đổ bê tông, nâng cấp ngõ đi chung, cả ba gia đình đều đóng góp tài chính. Do vậy, nếu có tranh chấp thì có căn cứ để xác định ngõ đi đó là ngõ đi chung của các gia đình;
                2. Cần kiểm tra lại xem nguồn gốc của ngõ đi đó trước năm 1983: Nếu là đất của hai gia đình kia bỏ ra cùng sử dụng làm ngõ đi chung thì họ mới có quyền "cho" gia đình thứ ba đi cùng. Nếu là ngõ đi "công cộng" thì gia đình nào cũng có quyền đi. Cũng cần làm rõ xem ngõ đi đó có được cấp GCN QSD đất cho gia nào chưa để xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp (theo Điều 136 Luật đất đai);
                3. Việc gia đình hàng xóm xây dựng trên ngõ đi chung (đã tồn tại 30 năm nay) là trái pháp luật (trừ trường hợp tất cả ngõ đi đó đều được cấp GCN cho gia đình hàng xom- sử dụng riêng và việc xây dựng đó phù hợp với quy định của Luật xây dựng). Do vậy, gia đình ông A có thể yêu cầu thanh tra xây dựng xử lý vi phạm trật tự xây dựng và buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:25:24 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Theo thông tin bạn nêu thì Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và các tài sản khác gắn liền với đất của gia đình bạn có khác biệt về hiện trạng so với những thông tin ghi trong Giấy chứng nhận (nhà ở mới tạo lập hoặc cải tạo sau khi đã được cấp GCN). Do vậy, gia đình bạn muốn thế chấp cả QSH nhà thì phải đăng ký biến động rồi mới thực hiện được thủ tục đăng ký thế chấp. Nếu gia đình bạn không đăng ký biến động mà ký hợp đồng thế chấp và thực hiện thủ tục đăng ký thế chấp thì Văn phòng đăng ký QSD đất sẽ căn cứ vào Điều 91 Luật nhà ở, thông tư 17/2009/TT-BTP để từ chối đăng ký thế chấp của gia đình bạn.
                Bạn có thể viện dẫn các quy định của BLDS, Luật Công chứng, Nghị định 163... để "tranh cãi" nhưng kết quả sẽ không khả quan. Chỉ còn cách là bạn đăng ký biến động trước khi thực hiện thủ tục thế chấp hoặc chỉ thế chấp tài sản đã được công nhận quyền sở hữu theo Giấy chứng nhận và "gài" thêm câu: Những tài sản được hình thành sau khi Bên thế chấp được công nhận quyền sở hữu gắn liền với tài sản thế chấp cũng là tài sản thế chấp theo Hợp đồng này... Hoặc tài sản thế chấp còn bao gồm cả những tài sản, giá trị phát sinh sau khi Bên thế chấp được cấp GCN QSD đất...
129 Trang «<949596979899100>»