Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 02:38:50 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Bạn cứ thực hiện tủ tục theo quy định tại Điều 8, Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do chính phủ ban hành thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, cụ thể như sau:

           " Điều 8. Chứng nhận quyền sở hữu nhà ở

    Chủ sở hữu nhà ở được chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nếu thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở và có giấy tờ chứng minh việc tạo lập hợp pháp về nhà ở theo quy định sau đây:

    1. Hộ gia đình, cá nhân trong nước phải có một trong các loại giấy tờ sau:

    a) Giấy phép xây dựng nhà ở đối với trường hợp phải xin giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng;

    b) Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở hoặc giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước từ trước ngày 05 tháng 7 năm 1994;

    c) Giấy tờ về giao hoặc tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết;

    d) Giấy tờ về sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ mà nhà đất đó không thuộc diện Nhà nước xác lập sở hữu toàn dân theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa XI “về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991”, Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991”;

    đ) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc đổi hoặc nhận thừa kế nhà ở đã có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế hoặc thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật kể từ ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì phải có văn bản về giao dịch đó theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà ở.

    Trường hợp nhà ở do mua của doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán thì phải có hợp đồng mua bán nhà ở do hai bên ký kết; trường hợp mua nhà kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 (ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành) thì ngoài hợp đồng mua bán nhà ở, bên bán nhà ở còn phải có một trong các giấy tờ về dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư);

    e) Bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu nhà ở đã có hiệu lực pháp luật;

    g) Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu nhà ở có một trong những giấy tờ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác thì phải có một trong các giấy tờ về mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 có chữ ký của các bên có liên quan và phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 mà không có giấy tờ về việc đã mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở có chữ ký của các bên có liên quan thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận về thời điểm mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở đó;

    h) Trường hợp cá nhân trong nước không có một trong những giấy tờ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở đã được xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006, nhà ở không có tranh chấp, được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật; trường hợp nhà ở xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng, không có tranh chấp và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp nhà ở xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006.

    2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có giấy tờ sau:

    a) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật về nhà ở;

    b) Một trong các giấy tờ của bên chuyển quyền quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này.

    3. Tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài phải có giấy tờ theo quy định sau:

    a) Trường hợp đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê thì phải có một trong những giấy tờ về dự án nhà ở để cho thuê (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư);

    b) Trường hợp mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật thì phải có giấy tờ về giao dịch đó theo quy định của pháp luật về nhà ở."

            Hồ sơ và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu nhà ở, công trình xây dựng được quy định tại Điều 16 như sau:

    "1. Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận;

    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (nếu có);

    c) Giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 8 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là nhà ở;

    d) Giấy tờ về quyền sở hữu công trình xây dựng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là công trình xây dựng;

    đ) Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (nếu có);

    e) Sơ đồ nhà ở hoặc công trình xây dựng (trừ trường hợp trong giấy tờ quy định tại các điểm b, c và d khoản này đã có sơ đồ nhà ở, công trình xây dựng).

    2. Trường hợp người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thực hiện các công việc theo quy định tại khoản 2 Điều 14 và khoản 2 Điều 15 của Nghị định này.

    3. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện có trách nhiệm thực hiện các công việc theo quy định tại khoản 3 Điều 14 và khoản 3 Điều 15 của Nghị định này".
           Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 02:03:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu khi hòa giải tại UBND cấp xã phường mà người con dâu thừa nhận là đã nhận tiền của bố mẹ chồng thì đó cũng là một căn cứ để xác định vợ chồng chị ta có trách nhiệm hoàn trả số tiền đó. Nếu chị ta không thừa nhận thì gia đình bạn phải xuất trình chứng cứ thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu.
    Thân!
  • Xem thêm     

    28/09/2011, 01:10:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Khoản 4, Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhận quy định: "Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau" thì được miễn thuế thu nhập cá nhân. Do vậy, khi nhận thừa kế từ cha bạn thì bạn không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

            Thực tế việc khai nhận di sản thừa kế rất phức tạp vì liên quan đến nhiều người, nhiều loại giấy tờ. Trong khi đó Công chứng viên và cơ quan hành chính nhà nước thì làm việc máy móc (cứ phải đúng loại giấy tờ đó thì mới chấp nhận). Do vậy nhiều trường hợp đương sự không có tranh chấp thừa kế nhưng vẫn phải lôi nhau ra Tòa án để phân chia (vì không thể khai nhận thừa kế theo thủ tục thông thường do không đủ giấy tờ).

  • Xem thêm     

    27/09/2011, 05:06:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Nếu thửa đất của bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 49 và Điều 50 Luật đất đai thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy chứng nhận) mà không cần phải có ý kiến của chủ cũ.
    2. Nếu bạn không thuộc trường hợp nào theo quy định của Điều luật trên, đồng thời chủ sử dụng đất lại "mất tích" thì trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuộc về các thừa kế của chủ cũ đó. Nếu họ vẫn cố tình không thực hiện việc sang tên thì bạn có thể khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng để Tòa án giải quyết.
       Tuy nhiên, để thực hiện các việc trên thì bạn cần làm rõ hơn hợp đồng mua bán viết tay đó ký vào thời gian nào? Thỏa thuận thế nào? Nguồn gốc đất ra sao?... Nguồn gốc và Hợp đồng đó có đủ điều kiện được cấp giấy hay không? Nếu cấp giấy thì cấp cho ai...Tốt nhất là bạn nên pho to hợp đồng và nhờ Luật sư xem lại giá trị pháp lý hoặc yêu cầu luật sư thực hiện dịch vụ cấp Sổ trọn gói!
    Thân!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 04:24:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 12:31:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Tôi trả lời bạn như sau:
              1. Khoản 12, Điều 38 Luật đất đai quy định: Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp "
    Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.".
             Do vậy, nếu bạn không sử dụng trong thời hạn 01 năm hoặc chậm tiến độ triển khai dự án trong thời hạn 2 năm thì có bị thu hồi đất theo quy định tại khoản 12, Điều 38 Luật đất đai nêu trên.
               2. Nếu lô đất đó thuộc diện được phép chuyển nhượng đất nền như Ls đã nêu thì sau khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bạn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCN QSD đất mà không cần phải đợi theo đợt. Thời hạn sử dụng đất phụ thuộc vào Quyết định phê duyệt dự án của Chủ đầu tư cấp I. Do vậy bạn cần xem lại hồ sơ pháp lý để có câu trả lời (bạn đã ký hợp đồng chuyển nhượng mà không rõ tính chất pháp lý của lô đất là: giao đất có thu tiền sd đất, giao đất không thu tiền sd đất hay thuê đất thì thật là bất cẩn).
               3. Luật đất đai quy định: Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký (ghi tên bên nhận chuyển nhượng vào hồ sơ địa chính). Do vậy nếu Chủ đầu tư phá sản trước khi đăng ký (bạn được cấp giấy chứng nhận) thì về mặt pháp lý tài sản vẫn là của Chủ đầu tư cấp I.
               Thực tế tôi đã từng bảo vệ cho một khách hàng rơi vào trường hợp như bạn hỏi: Công ty A chuyển nhượng QSDĐ khoảng 10.000m2 đất (viết tay) cho Công ty B. từ năm 1997, công ty B đã xây nhà xưởng và hoạt động từ đó. Đến năm 2007 Công ty A được cấp GCN và tiến hành thủ tục sang tên cho công ty B. Khi thủ tục sang tên sắp hoàn tất (đã nộp thuế, chỉ chờ nhận GCN) thì Công ty A bị Tòa án tuyên bố phá sản. Kết quả là lô đất đó vẫn được xác định là tài sản của Công ty A và bị phát mại để thi hành án!
              Do vậy, bạn cần xem lại các thủ tục pháp lý. Nếu trường hợp mua bán hợp pháp thì bạn sang tên càng sớm càng tốt! Tốt nhất là bạn nên pho to giấy tờ để Luật sư gặp bạn trực tiếp để tư vấn cho bạn hoặc thực hiện dịch vụ trọn gói cho bạn.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:36:14 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Tôi nhất trí với ý kiến của bạn! Nếu muốn được tư vấn cụ thể và chính xác, bạn nên pho to hồ sơ để Luật sư xem xét và trả lời cụ thể cho  bạn!
    Thân!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:18:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Khoản 3, Điều 7 thông tư 16/2010/TT-BXD ngày 01 tháng 09 năm 2010 hướng dẫn Nghị định 71/2010/NĐ-CP Quy định: Chủ đầu tư không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức bán nền chưa xây dựng nhà ở nêu tại khoản 5 Điều 16 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP được áp dụng đối với các dự án phát triển nhà ở, dự án khu đô thị mới, dự án khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại các thành phố, thị xã (tính theo ranh giới hành chính, không phân biệt khu vực đô thị và khu vực nông thôn) hoặc tại các khu đô thị mới được quy hoạch thành thành phố, thị xã; đối với các khu vực khác thì chủ đầu tư được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức bán nền nhưng phải có đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật tương ứng trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất."
            Do vậy nếu lô đất bạn mua không thuộc địa giới hành chính là "thành phố, thị xã" hoặc "khu vực đô thị mới được quy hoạch thành phố, thị xã" thì việc chuyển nhượng là hợp pháp nếu đã có đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật tương ứng trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu hợp đồng chuyển nhượng đã hợp pháp theo quy định tại Điều 7 thông tư 16/2010/TT-BXD nêu trên thì bạn hoàn toàn có quyền ký hợp đồng hợp tác xây dựng nhà ở trên lô đất nền đó theo thiết kế đã được phê duyệt với các chủ đầu tư có năng lực.
    Thân ái!
     
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 03:36:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     Chào bạn!
          1. Ai nói với bạn là: "dự án xây dựng khu đô thị ở vùng nông thôn nên dự án có thể không phải xây mà có thể chuyển nhượng đất nền"?. Trường hợp của bạn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật nhà ở và Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ. Việc chuyển nhượng dự án (toàn bộ) chỉ được thực hiện trong một số trường hợp nhất định và bên nhận chuyển nhượng dự án phải có năng lực để thực hiện dự án. Còn mọi việc xin dự án xây dựng nhà chung cư, khu đô thị sau đó không xây dựng mà phân lô để bán đất nền đều là trái pháp luật. Bạn mua các lô đất đó là vô cùng rủi ro. Cụ thể:
    Khoản 4, Điều 8 Nghị định 71 quy định: "
    Chủ đầu tư cấp I của dự án phát triển khu nhà ở được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II để xây dựng nhà ở sau khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng với nội dung, tiến độ của dự án và phải tuân thủ nội dung dự án đã được phê duyệt, nội dung chấp thuận đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.".
           Như vậy, sau khi có hạ tầng kỹ thuật thì Chủ đầu tư cấp I mới được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư cấp II. Nhà đầu tư cấp II cũng phải có năng lực thực hiện dự án đã được phê duyệt.
         2. Việc huy động vốn được quy định cụ thể tại Điều 9, Nghị định 71 như sau: 

    "Huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở

    1. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển khu nhà ở, dự án khu đô thị mới (chủ đầu tư cấp I) có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đối với phần diện tích xây dựng nhà ở và đầu tư xây dựng nhà ở trong khu nhà ở, khu đô thị đó thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức sau đây:

    a) Ký hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư hoặc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật để huy động số vốn còn thiếu cho đầu tư xây dựng nhà ở; bên cho vay vốn hoặc bên mua trái phiếu không được quyền ưu tiên mua hoặc ưu tiên đăng ký mua nhà ở;

    b) Ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II;

    c) Ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư với tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia góp vốn hoặc bên tham gia hợp tác đầu tư chỉ được phân chia lợi nhuận (bằng tiền hoặc cổ phiếu) hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở trên cơ sở tỷ lệ vốn góp theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở và phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này;

    d) Ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia hợp tác kinh doanh chỉ được phân chia lợi nhuận (bằng tiền hoặc cổ phiếu) hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này;

    đ) Huy động vốn từ tiền mua nhà ứng trước của các đối tượng được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở thông qua hình thức ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai.

    2. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở độc lập (kể cả chủ đầu tư cấp II trong dự án phát triển khu nhà ở, khu đô thị mới, công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp) có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức quy định tại các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều này.

    3. Các chủ đầu tư quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này khi thực hiện huy động vốn để xây dựng nhà ở phải tuân thủ các điều kiện sau đây:

    a) Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II sau khi đã giải phóng mặt bằng của dự án và đã thực hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án. Sau khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng với nội dung và tiến độ của dự án thì chủ đầu tư cấp I được ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chủ đầu tư cấp II.Trong trường hợp chủ đầu tư cấp II có nhu cầu huy động vốn để xây dựng nhà ở trên diện tích đất nhận chuyển nhượng của chủ đầu tư cấp I thì chỉ được ký hợp đồng huy động vốn sau khi đã có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký với chủ đầu tư cấp I, có thỏa thuận trong hợp đồng về việc chủ đầu tư cấp II được huy động vốn để xây dựng nhà ở và đã có đủ các điều kiện để huy động vốn theo quy định tại khoản này; trường hợp chưa chuyển quyền sử dụng đất từ chủ đầu tư cấp I sang chủ đầu tư cấp II theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc huy động vốn phải được chủ đầu tư cấp I đồng ý bằng văn bản;

    b) Đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư sau khi đã có dự án phát triển nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện khởi công xây dựng công trình nhà ở và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này;

    c) Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi đã có dự án nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện giải phóng mặt bằng, có biên bản bàn giao mốc giới của dự án và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này.

    Trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh được phân chia sản phẩm là nhà ở mà có nhu cầu bán, cho thuê nhà ở đó thì không được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê mà do chủ đầu tư (bên có quyền sử dụng đất) trực tiếp ký hợp đồng với người mua, người thuê sau khi có đủ điều kiện quy định tại khoản này; trong trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh đã nhận bàn giao nhà ở và đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở được phân chia thì được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê nhà ở đó theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này;

    d) Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này mà trong hợp đồng có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia tối đa cho các hình thức huy động vốn không quá 20% số lượng nhà ở trong mỗi dự án (tính trên tổng số lượng nhà ở thương mại của dự án cấp I hoặc dự án phát triển nhà ở độc lập không phải là dự án cấp II) không phải thông qua sàn giao dịch bất động sản, nhưng phải thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở để xác nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Nghị định này; số lượng nhà ở còn lại trong mỗi dự án này chủ đầu tư phải thực hiện bán, cho thuê theo đúng quy định tại điểm đ và điểm e khoản này;

    đ) Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng mua bán nhà ở sau khi đã có thiết kế kỹ thuật nhà ở được phê duyệt, đã xây dựng xong phần móng của nhà ở, đã hoàn thành thủ tục mua bán qua sàn giao dịch bất động sản theo đúng quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này.

    Việc xây dựng xong phần móng của nhà ở (kể cả công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp) quy định tại điểm này được xác định là giai đoạn đã thi công xong phần đài giằng móng (bao gồm cả phần xử lý nền nếu có) hoặc tới độ cao mặt bằng sàn của tầng thấp nhất của công trình nhà ở đó và được nghiệm thu kỹ thuật theo quy định của pháp luật về xây dựng;

    e) Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại các điểm b, c và điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở biết trước ít nhất 15 ngày, tính đến ngày ký hợp đồng huy động vốn.

    Trong văn bản thông báo phải nêu rõ hình thức huy động vốn, số vốn cần huy động; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ diện tích đất sẽ chuyển nhượng, tên chủ đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn, hợp tác đầu tư, nếu có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở sẽ phân chia, tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân được phân chia nhà ở; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở (nhà ở riêng lẻ, nhà biệt thự, căn hộ chung cư) và địa chỉ của nhà ở sẽ bán. Chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng huy động vốn hoặc hợp đồng mua bán nhà ở khi đã có đủ các điều kiện quy định tại Điều này.

    4. Chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở phải sử dụng vốn đã huy động vào đúng mục đích xây dựng dự án phát triển nhà ở đó, không được dùng số vốn đã huy động vào mục đích khác hoặc sử dụng cho các dự án phát triển nhà ở khác. Những trường hợp huy động vốn không đúng các hình thức và không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều này thì hợp đồng đã ký không có giá trị pháp lý và bên huy động vốn bị xử lý theo quy định hiện hành.".
               Như vậy, việc bạn góp vốn để được quyền ưu tiên mua nhà hoặc mua nhà ở hình thành trong tương lai phải tuân thủ các quy định pháp luật trên. Nếu trái quy định thì giao dịch không có giá trị pháp lý, các bên phải chịu rủi ro và có thể bị xử lý theo quy định pháp luật.
    Thân ái! Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp!

  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:25:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau: Pháp luật quy định, trong việc chuyển nhượng BĐS, nếu các bên không có thỏa thuận nào khác thì Bên chuyển nhượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng BĐS (thường là 2% giá trị chuyển nhượng), bên nhận chuyển nhượng phải chịu tiền lệ phí trước bạ là 0,5% giá trị chuyển nhượng. Cụ thể như sau:

    Điều 14 Luật thuế thu nhập cá nhân quy định:

    “Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản

    1. Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản được xác định bằng giá chuyển nhượng bất động sản theo từng lần chuyển nhượng trừ giá mua bất động sản và các chi phí liên quan, cụ thể như sau:

    a) Giá chuyển nhượng bất động sản là giá theo hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng;

    b) Giá mua bất động sản là giá theo hợp đồng tại thời điểm mua;

    c) Các chi phí liên quan được trừ căn cứ vào chứng từ, hoá đơn theo quy định của pháp luật, bao gồm các loại phí, lệ phí theo quy định của pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất; chi phí cải tạo đất, cải tạo nhà, chi phí san lấp mặt bằng; chi phí đầu tư xây dựng nhà ở, kết cấu hạ tầng và công trình kiến trúc trên đất; các chi phí khác liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản.

    2. Trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản thì thu nhập chịu thuế được xác định là giá chuyển nhượng bất động sản.

    3. Chính phủ quy định nguyên tắc, phương pháp xác định giá chuyển nhượng bất động sản trong trường hợp không xác định được giá chuyển nhượng hoặc giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi trên hợp đồng thấp hơn giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định có hiệu lực tại thời điểm chuyển nhượng.

    4. Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực theo quy định của pháp luật.”. 

    Thuế suất được quy định tại Điều 23, cụ thể như sau:

    e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này

    25%

    Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này

    2%

    Như vậy, theo các quy định pháp luật trên thì nếu không xác định được giá trị ban đầu của BĐS thì giá tính thuế là (2%) giá trị chuyển nhượng thể hiện tại Hợp đồng chuyển nhượng nếu giá đó không thấp hơn khung giá do Nhà nước quy định. Do vậy, nếu khung giá nhà nước quy định bằng hoặc thấp hơn 80.000.000 đồng thì số thuế thu nhập cá nhân trong trường hợp của bạn là 1.600.000 đồng. Ngoài ra lệ phí trước bạ là 400.000 đồng (5%). Tổng cộng các bên phải nộp số tiền là 2.000.000 đồng.

    Tuy nhiên, trốn thuế là một hành vi vi phạm pháp luật và bị xử phạt thậm chí còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu có căn cứ chứng minh được bạn đã khai thấp giá trị chuyển nhượng để trốn thuế thì Cơ quan Thuế có quyền xử phạt bạn theo quy định pháp luật về quản lý thuế. Nếu bạn thấy việc xử phạt trên là không có căn cứ thì bạn có quyền khiếu nại đến đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:24:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau: Cần phải xem lại việc “đổi” đất của gia đình bạn có hợp pháp hay không bởi theo quy định của Luật đất đai thì UBND cấp phường (xã) không có thẩm quyền giao đất và thu hồi đất.

    1.     Nếu việc đổi đất mà hợp pháp (có văn bản đổi đất hoặc giao đất của UBND quận) thì Giấy chứng nhận đối với thửa đất cũ không còn giá trị (có thể đã bị hủy) nên gia đình bạn phải tiến hành xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đối với thửa đất gia đình bạn đang sử dụng.

    2.     Nếu việc đổi đất đó không hợp pháp thì bạn cần phải liên hệ với UBND quận hoặc UBND thành phố Hà Nội để giải quyết. Sau khi xem xét giải quyết, UBND cấp quận có Quyết định giao đất hoặc đổi đất cho gia đình bạn thì gia đình bạn lấy Quyết định đó để xin cấp Giấy chứng nhận theo quy định chung.

    Nếu thủ tục của gia đình bạn gặp khó khăn, vướng mắc thì hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí hoặc chúng tôi có thể cung cấp dịch vụ xin cấp Giấy chứng nhận trọn gói cho bạn.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:23:04 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trước đây “dân ta” hay dựa vào màu sắc của Giấy tờ sở hữu để gọi tên: Ví dụ, dùng thuật ngữ “Sổ đỏ” để gọi cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; “Sổ hồng” để gọi cho Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; ngoài ra còn “sổ trắng” để chỉ Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình trên đất, “Sổ xanh” để chỉ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời… Mẫu Giấy chứng nhận qua các thời kỳ cũng có mẫu khác nhau.

    Tuy nhiên, từ năm 2009 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản quy định thống nhất cả nước cấp một mẫu giấy chung để chứng nhận cho tất cả các loại bất động sản (đất, nhà, cây, công trình xây dựng…) có tên là GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ CÁC TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT.

    Trường hợp của bạn là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu cũ. Do vậy nếu gia đình bạn có nhu cầu cấp mới giấy chứng nhận theo mẫu mới và công nhận quyền sở hữu nhà thì cần thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nộp kèm theo Giấy phép xây dựng nhà hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương để được công nhận quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:20:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ luật tố tụng dân sự quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm hại. Do vậy, kể từ thời điểm nhà hàng xóm bị nứt là họ có quyền khởi kiện bạn. Còn bạn có phải bồi thường hay không? Mức độ bồi thường là bao nhiêu thì khi Tòa án thụ lý xem xét thì mới biết được. Theo tôi sự việc này nhiều khả năng là do việc xây nhà của gia đình bạn làm ảnh hưởng đến nhà hàng xóm do vậy hai bên nên thỏa thuận mức bồi thường cho hợp lý, tránh kiện tụng thì hơn!

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:19:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào anh!

    Câu hỏi của anh, Luật sư trả lời như sau:

    1.     Hiện giờ lô đất 5000m2 và tài sản trên đất đều đứng tên em anh thì là tài sản riêng của em anh hoặc là tài sản chung vợ chồng của vợ chồng em anh. Em anh chết, nếu không có di chúc thì phần sở hữu tài sản của em anh thuộc về hàng thừa kế thứ nhất là bố mẹ anh, em dâu và con của em trai anh. Nếu thửa đất đó đã góp vốn vào DNTN xăng dầu thì là tài sản của Doanh nghiệp, trước tiên phải dùng để thanh toán các nghĩa vụ của Doanh nghiệp, còn lại mới tính đến thừa kế.

    2.     Nếu Doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản và được Tòa án giải quyết tuyên bố phá sản thì sau khi có bản án có hiệu lực của Tòa án, Cơ quan thi hành án sẽ phát mại tài sản để thi hành án. Giá trị tài sản được xác định tại thời điểm thi hành án theo giá thị trường hoặc theo kết quả bán đấu giá của phiên bán đấu giá đó.

    3.     Về nguyên tắc: Nếu việc tặng cho tài sản là hợp pháp, tuân thủ các quy định của pháp luật thì chủ sở hữu trước đây không thể đòi lại được. Việc đưa 1,8 tỷ cho em trai anh mà không có chứng cứ gì thì gia đình anh khó có căn cứ để đòi lại. Việc mua lô đất 5000m2 cũng không phải lấy trực tiếp từ khoản tiền 1,8 tỷ do vậy việc đòi số tiền đó của gia đình anh là rất khó. Anh nên mời Luật sư trực tiếp tham gia vụ việc của gia đình anh thì mới đảm bảo được quyền lợi hợp pháp cho gia đình anh

    4.     Việc ủy quyền được thực hiện tại Phòng công chứng. Phòng công chứng có mẫu sẵn, do vậy gia đình anh có thể đến đó để thực hiện thủ tục ủy quyền.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:18:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Khoản 1, Điều 4Luật thuế thu nhập cá nhân quy định:

    “ Thu nhập được miễn thuế

    1.     Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.”.

    Do vậy trường hợp của bạn thuộc khoản 1, Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân nên được miễn thuế theo quy định. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    26/09/2011, 01:16:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Tôi xin góp ý như sau:
          Về mặt pháp lý thì đất nông nghiệp nằm xen kẽ trong khu dân cư nông thôn (đất xen kẹt) và đất vườn ao liền kề trong cùng thửa đất ở có thể chuyển sang đất ở và phải nộp 50% tiền chênh lệch giữa loại đất đó và đất ở. Các địa phương  (tỉnh) cũng có những văn bản bản hướng dẫn thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất cho địa phương mình. Tuy nhiên thực tế việc chuyển mục đích sử dụng đất không dễ dàng như luật định. Điều kiện quan trong là phải phù hợp với quy hoạch và chấp hành tốt pháp luật (không sử dụng sai mục đích, lấn chiếm) thì mới được chuyển đổi nhưng hầu hết các trường hợp xin chuyển đổi là đã "xây nhà trên đất nông nghiệp" nên không đủ điều kiện chuyển đổi.
           Thực tế ở Hà Nội có Quyết định 121/2009/QĐ-UBND quy định rất chi tiết về thủ tục chuyển đổi đất nông nghiệp, vườn ao sang đất ở nhưng người dân hiếm khi được chuyển mục đích sử dụng đất bởi nhiều lý do khác nhau và do cơ chế lòng vòng!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 11:39:18 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Khoản 1 điều 8 Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19-10-2009 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định: "chủ sở hữu nhà ở được chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nếu thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở và có giấy tờ chứng minh việc tạo lập hợp pháp về nhà ở theo quy định". Trường hợp nhận mua bán, nhận tặng cho, đổi hoặc thừa kế thì: "giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc đổi hoặc nhận thừa kế nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật".

    Điểm g, khoản 1, Điều 8 quy định: trường hợp người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở có một trong những giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác và có một trong các giấy tờ về mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 1-7-2006 (ngày Luật nhà ở 2005 có hiệu lực) có chữ ký của các bên có liên quan, được UBND cấp xã xác nhận thì cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Do vậy, trường hợp của bạn nếu thuộc điểm g, khoản 1, Điều 8 nêu trên thì bạn có thể làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bạn theo mẫu mới trong đó thể hiện quyền sở hữu nhà; Trong trường hợp nhà đang xây dựng có Giấy phép xây dựng cáp cho bạn thì bạn căn cứ vào giấy phép xây dựng để đính chính lại GCN QSD Đất để được công nhận quyền sở hữu nhà ở. Nếu nhà ở tồn tại từ trước và không có giấy phép xây dựng thì cần phải có văn bản của UBND cấp xã phường thể hiện nguồn gốc hợp pháp của ngôi nhà đó thì bạn mới được công nhận quyền sở hữu nhà ở.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 11:11:31 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn Luật sư trả lời như sau:
    1. Trước tiên cần xem lại giá trị pháp lý của "Sổ đỏ" do bố bạn đứng tên từ năm 2001. Nếu việc cấp Sổ đó là đúng pháp luật thì các chú bạn không có quyền đòi lại. Nếu cấp không đúng thì chú bạn mới có căn cứ để yêu cầu chia tài sản chung của hộ gia đình hoặc chia thừa kế.
    2. Việc bố bạn và ông bạn cho tiền các chú để mua nhà đất khác... không làm mất quyền yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông bạn (đó là quan hệ pháp luật tặng cho). Thời điểm đó nếu có biên bản thỏa thuận là bố bạn bỏ tiền ra cho các chú và các chú phải nhường quyền thừa kế cho bố bạn thì các chú mới có thể mất quyền thừa kế hoặc bố bạn mới có thể đòi lại được số tiền đã đưa cho các chú.
    3. Theo nội dung bạn trình bày thì rất nhiều khả năng nhà đất đó là tài sản chung của ông bà bạn hoặc của hộ gia đình ông bà bạn. Do vậy nếu không có biên bản thỏa thuận phân chia hoặc giấy tờ tặng cho bố bạn thì Sổ đứng tên bố bạn chưa chắc đã hợp pháp. Ban cần xem lại bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận của bố bạn xem căn cứ nào để bố bạn được đứng tên và xem việc đứng tên đó có đúng pháp luật không.
    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    23/09/2011, 11:31:01 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Để giải quyết triệt để vụ việc của bạn thì bạn phải thực hiện các bước sau:
    1. Đối thoại, hòa giải với người đang tranh chấp với bạn để giải quyết dứt điểm việc tranh chấp. Nếu họ đồng ý với phương thức hòa giải thì họ có thể rút đơn tranh chấp tại UBND xã hoặc UBND xã lập Biên bản hòa giải thành làm căn cứ công nhận quyền sử dụng đất cho bạn. Trong thủ tục trên bạn cũng có thể nhờ Luật sư tư vấn, đại diện cho bạn hoặc làm trung gian hòa giải giữa hai bên.
    2. Trong trường hợp hai bên vẫn không thể hòa giải để giải quyết tranh chấp thì bạn có thể nộp đơn khởi kiện đến TAND cấp huyện hoặc TAND cấp tỉnh (nếu có yếu tố nước ngoài) nơi có đất tranh chấp để giải quyết. Nếu đất của bạn không có giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai và cũng không tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì bạn có quyền yêu cầu UBND cấp huyện giải quyết theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai.
    3. Sau khi có quyết định giải quyết cuối cùng của Tòa án hoặc UBND xác định bạn có quyền sử dụng thửa đất đó thì bạn có thể căn cứ vào Quyết định, bản án đó để xin cấp GCN quyền sử dụng đất.
       Thủ tục và quá trình đó rất dài và phức tạp. Luật sư cũng chư biết nguồn gốc sử dụng đất của bạn có hợp pháp không? có phù hợp quy hoạch không?... nên không thể tư vấn cụ thể cho bạn được. Do vậy bạn cần trình bày cụ thể hơn hoặc có thể nhờ Luật sư có chuyên môn về tranh tụng đất đai tham gia vụ việc để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    22/09/2011, 12:43:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Theo quy định pháp luật thì việc chuyển quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất mới phải nộp thuế thu nhập cá nhân (2%) và lệ phí trước bạ (0,5%). Ngoài ra nếu bạn là người phải tiến hành thủ tục xin cấp GCN thì bạn còn phải nộp tiền lệ phí cấp GCN.
    Tuy nhiên, gần đây tại Công văn số 1133/TCT-TNCN ngày 05/4/2011 Tổng cục thuế hướng dẫn các đơn vị trực thuộc là thu thuế cả đối với việc ủy quyền quản lý, sử dụng, định đoạt căn hộ chung cư. Do vậy ở một số địa phương cứ bao nhiêu lần ủy quyền thì Cơ quan thuế thu bấy nhiêu lần thuế thu nhập cá nhân (2% x số lần ủy quyền).
    3. Chắc chắn bạn phải tìm đến người đứng tên trong Hợp đồng mua bán căn hộ ký với chủ đầu tư để "nhờ" họ tiến hành thủ tục xin cấp giấy chứng nhận và sang tên cho bạn.
    4. Trường hợp mua bán căn hộ chung cư bằng hình thức ủy quyền của bạn là khá phố biến trên thị trường nhà đất Việt Nam nhưng cũng là trường hợp tiềm ẩn rất nhiều rủi ro pháp lý.
    Ví dụ: - Nếu một trong các bên tham gia ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền đó chấm dứt hiệu lực pháp lý (khoản 4, Điều 589 BLDS)
    - Nếu hợp đồng ủy quyền không có công chứng thì hợp đồng có thể chấm dứt hiệu lực nếu một trong các bên đơn phương tuyên bố chấm dứt ủy quyền (khoản 3, Điều 589 BLDS);
    - Nếu hợp đồng ủy quyền có công chứng thì chủ đầu tư sẽ yêu cầu bạn phải tiến hành các thủ tục để hủy các hợp đồng ủy quyền trước đây thì chủ đầu tư mới chấp nhận làm việc với bạn (theo Điều 44 Luât công chứng);
    - Nếu đến thời điểm căn hộ được cấp GCN mà chủ Hợp đồng mua bán căn hộ không ký HĐ mua bán để sang tên cho họ hoặc họ chết hoặc kết hôn, hoặc mất tích... thì sự việc sẽ trở nên tồi tệ... ngoài ra còn hàng trăm những rủi ro khác mà bạn không thể lường trước được. Do vậu, nếu bạn đã "trót" giao dịch dưới dạng ủy quyền thì cố gắng sang tên càng nhanh càng tốt và đề phòng một số tình huống rủi ro thường gặp trên.
    Thân ái!