Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 03:14:18 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trường hợp của bạn là Quan hệ pháp luật lao động và chứ không có dấu hiệu tội phạm. Bạn chỉ có thể khởi kiện tranh chấp lao động theo quy định pháp luật.

    Thân!

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 03:05:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Thông thường nếu dự án không thể tiếp tục triển khai do chủ đầu tư thiếu vốn hoặc những lý do khác thì hai bên có thể thương lượng để thanh lý hợp đồng và người góp vốn (người mua) được nhận lại số tiền đó và có thể được thanh toán tiền lãi nếu có thỏa thuận. (Tôi đã có một khách hàng được nhận lại cả vốn lẫn lãi theo thỏa thuận khi dự án đó không thể tiếp tục được do Vành đai xanh quy hoạch HN).

    2. Trường hợp của bạn là bán đất nền thì bạn phải có trách nhiệm triển khai dự án đó trong phạm vị phần đất mà bạn đã nhận chuyển nhượng như đã cam kết giữa các bên
    3.Bạn có thể kiểm tra dự án đó ở Sở xây dựng hoặc Sỏ kế hoạch và đầu tư. Ngoài ra bạn yêu cầu chủ đầu tư cung cấp Hồ sơ pháp lý về dự án đó.

    Thân!

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 03:00:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Thông thường nếu dự án không thể tiếp tục triển khai do chủ đầu tư thiếu vốn hoặc những lý do khác thì hai bên có thể thương lượng để thanh lý hợp đồng và người góp vốn (người mua) được nhận lại số tiền đó và có thể được thanh toán tiền lãi nếu có thỏa thuận. (Tôi đã có một khách hàng được nhận lại cả vốn lẫn lãi theo thỏa thuận khi dự án đó không thể tiếp tục được do Vành đai sanh quy hoạch HN).

    2. Trường hợp của bạn là bán đất nền thì bạn phải có trách nhiệm triển khai dự án đó trong phạm vị phần đất mà bạn đã nhận chuyển nhượng như đã cam kết giữa các bên.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 02:38:50 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Bạn cứ thực hiện tủ tục theo quy định tại Điều 8, Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do chính phủ ban hành thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, cụ thể như sau:

           " Điều 8. Chứng nhận quyền sở hữu nhà ở

    Chủ sở hữu nhà ở được chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nếu thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở và có giấy tờ chứng minh việc tạo lập hợp pháp về nhà ở theo quy định sau đây:

    1. Hộ gia đình, cá nhân trong nước phải có một trong các loại giấy tờ sau:

    a) Giấy phép xây dựng nhà ở đối với trường hợp phải xin giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng;

    b) Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở hoặc giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước từ trước ngày 05 tháng 7 năm 1994;

    c) Giấy tờ về giao hoặc tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết;

    d) Giấy tờ về sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ mà nhà đất đó không thuộc diện Nhà nước xác lập sở hữu toàn dân theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa XI “về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991”, Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991”;

    đ) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc đổi hoặc nhận thừa kế nhà ở đã có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế hoặc thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật kể từ ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì phải có văn bản về giao dịch đó theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà ở.

    Trường hợp nhà ở do mua của doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán thì phải có hợp đồng mua bán nhà ở do hai bên ký kết; trường hợp mua nhà kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 (ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành) thì ngoài hợp đồng mua bán nhà ở, bên bán nhà ở còn phải có một trong các giấy tờ về dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư);

    e) Bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu nhà ở đã có hiệu lực pháp luật;

    g) Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu nhà ở có một trong những giấy tờ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác thì phải có một trong các giấy tờ về mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 có chữ ký của các bên có liên quan và phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 mà không có giấy tờ về việc đã mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở có chữ ký của các bên có liên quan thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận về thời điểm mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở đó;

    h) Trường hợp cá nhân trong nước không có một trong những giấy tờ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở đã được xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006, nhà ở không có tranh chấp, được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật; trường hợp nhà ở xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng, không có tranh chấp và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp nhà ở xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006.

    2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có giấy tờ sau:

    a) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật về nhà ở;

    b) Một trong các giấy tờ của bên chuyển quyền quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này.

    3. Tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài phải có giấy tờ theo quy định sau:

    a) Trường hợp đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê thì phải có một trong những giấy tờ về dự án nhà ở để cho thuê (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư);

    b) Trường hợp mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật thì phải có giấy tờ về giao dịch đó theo quy định của pháp luật về nhà ở."

            Hồ sơ và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu nhà ở, công trình xây dựng được quy định tại Điều 16 như sau:

    "1. Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận;

    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (nếu có);

    c) Giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 8 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là nhà ở;

    d) Giấy tờ về quyền sở hữu công trình xây dựng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là công trình xây dựng;

    đ) Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (nếu có);

    e) Sơ đồ nhà ở hoặc công trình xây dựng (trừ trường hợp trong giấy tờ quy định tại các điểm b, c và d khoản này đã có sơ đồ nhà ở, công trình xây dựng).

    2. Trường hợp người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thực hiện các công việc theo quy định tại khoản 2 Điều 14 và khoản 2 Điều 15 của Nghị định này.

    3. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện có trách nhiệm thực hiện các công việc theo quy định tại khoản 3 Điều 14 và khoản 3 Điều 15 của Nghị định này".
           Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 02:24:46 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Thửa đất của gia đinh bạn chưa có giấy chứng nhận nên chưa thể lập được di chúc có công chứng. Công chứng viên từ chối lập di chúc là đúng.
    2. Chỉ có trường hợp người lập di chúc là người bị hạn chế về thể chất hoặc không biết chữ thì pháp luật mới bắt buộc di chúc phải bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực (khoản 3, Điều 652 BLDS) còn các trường hợp khác pháp luật không bắt buộc hình thức di chúc phải có công chứng hoặc chứng thực.
           Tuy nhiên, thực tế nếu di chúc không có công chứng hoặc chứng thực thì khi khai nhận di sản thừa kế Phòng công chứng thường không thực hiện việc khai nhận nhiều trường hợp buộc phải ra Tòa án để giải quyết (mặc dù thực tế các bên không có tranh chấp gì). Khi giải quyết, Tòa án sẽ xác định là quyền sử dụng đất đó có phải là di sản của người chết để lại hay không (đặc biệt là đối với trường hợp đất chưa có Sổ như của gia đình bạn) thì căn cứ vào quy định tại  điểm 1, mục II, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể như sau:

    " Xác định quyền sử dụng đất là di sản

    1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

    1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

    1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

    a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

    b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

    c) Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

    1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai."
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    28/09/2011, 02:03:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu khi hòa giải tại UBND cấp xã phường mà người con dâu thừa nhận là đã nhận tiền của bố mẹ chồng thì đó cũng là một căn cứ để xác định vợ chồng chị ta có trách nhiệm hoàn trả số tiền đó. Nếu chị ta không thừa nhận thì gia đình bạn phải xuất trình chứng cứ thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu.
    Thân!
  • Xem thêm     

    28/09/2011, 01:10:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Khoản 4, Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhận quy định: "Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau" thì được miễn thuế thu nhập cá nhân. Do vậy, khi nhận thừa kế từ cha bạn thì bạn không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

            Thực tế việc khai nhận di sản thừa kế rất phức tạp vì liên quan đến nhiều người, nhiều loại giấy tờ. Trong khi đó Công chứng viên và cơ quan hành chính nhà nước thì làm việc máy móc (cứ phải đúng loại giấy tờ đó thì mới chấp nhận). Do vậy nhiều trường hợp đương sự không có tranh chấp thừa kế nhưng vẫn phải lôi nhau ra Tòa án để phân chia (vì không thể khai nhận thừa kế theo thủ tục thông thường do không đủ giấy tờ).

  • Xem thêm     

    28/09/2011, 12:53:44 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Trường hợp của bạn có thể được hưởng trợ cấp mất việc làm và hưởng tiền bảo hiểm thất nghiệp
           1 . Việc hưởng bảo hiểm thất nghiệp được quy định như sau:
           Điều 81 Luật BHXH năm 2006, được hướng đẫn chi tiết tại Điều 15 Nghị định số 127/2008/NĐ - CP ngày 12/12/2008, người lao động được hưởng Bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau:

    “1. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

    2. Đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

    3. Chưa tìm được việc làm sau mười năm ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động theo quy định tại khoản 2 Điều này.”.
           2. Đối với khoản trợ cấp thôi việc:

            Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Lao động (BLLĐ): Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ đủ 12 tháng  trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương.

    Hướng dẫn chi tiết về “thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ”, tại khoản 3 Điều 11 Nghị định 39/2003 về thi hành một số điều của BLLĐ, là:

    - Thay đổi một phần hoặc toàn bộ máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ tiên tiến có năng suất lao động cao hơn.

    - Thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến sử dụng lao động ít hơn.

    - Thay đổi cơ cấu tổ chức: sáp nhập, giải thể một số bộ phận của đơn vị.
    Ngày 18/9/2009 BLĐTB&XH ban hành Thông tư số 39/2009/TT- BLĐTB&XH có hiệu lực từ ngày 03/01/2010 quy định: Thời gian để tính hưởng trợ cấp thôi việc là tổng thời gian bạn làm việc liên tục tại doanh nghiệp cho đến khi mất việc làm trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp. Do vậy, thời gian bạn đi học mà không được hưởng nguyên lương sẽ không được coi là thời gian làm việc liên tục để tính trợ cấp thôi việc.

    Thân!


  • Xem thêm     

    28/09/2011, 12:32:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

            1. Điều 202 Bộ luật hình sự quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”.

                Điểm 4, mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn Điều 202 BLHS như sau: “Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người…”.

               Như vậy, nếu người tài xế nói trên có lỗi, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (không có giấy phép lái xe; sử dụng rượu, bia chất kích thích; điều khiển xe sai phần đường; chạy quá tốc độ; không làm chủ tốc độ…) gây thiệt hại đến tính mạng của bố bạn thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS nêu trên. Nếu tài xế có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng thì sẽ bị xử lý theo khoản 2, Điều 202 BLHS.

                Nếu tài xế: Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn thì mới là tình tiết định khung tăng nặng. Còn việc Tài xế “cố thủ” trong cabin hoặc bỏ trốn khỏi hiện trường sau đó đến công an trình báo sự việc thì không phải là trốn tránh trách nhiệm hình sự. Trong tình huống trên có thể tài xế không vi phạm điểm c, khoản 2, Điều 202 BLHS.

               2.  Theo quy định thì công an phải xác minh sự việc (chụp ảnh, đo vẽ hiện trường, lấy lời khai nhân chứng…), nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố và  có thể bắt tạm giam với bị can để điều tra. Bạn chưa được tiếp xúc với hồ sơ vụ việc thì chưa thể khẳng định được là công an đã làm đúng hay sai.

               3.  Nếu tài xế không có lỗi đối với cái chết của bố bạn thì chỉ chủ xe và tài xế chỉ phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định tại Điều 623 BLDS.

                Việc xác định mức bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 07/6/2006 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau:

                “Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.

    b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.

    c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    - Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

     - Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

    d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).

    Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

    đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.”.

                * Mức bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được quy định tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP như sau: “Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                           2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

                  Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                 b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                 - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                 2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                 a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                 b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

                Vậy bạn có thể vận dụng các quy định pháp luật trên để bảo vệ quyền lợi cho gia đình mình. Nếu thấy có dấu hiệu tội phạm mà công an không khởi tố vụ án để xử lý hình sự thì bạn có quyền gửi đơn yêu cầu khởi tố vụ án và có thể khiếu nại đối với các hành vi sai phạm của các cán bộ có thẩm quyền. Gia đình bạn cũng có thể mời Luật sư tư vấn và bảo vệ quyền lợi cho gia đình mình trong vụ việc trên.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    27/09/2011, 05:06:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Nếu thửa đất của bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 49 và Điều 50 Luật đất đai thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy chứng nhận) mà không cần phải có ý kiến của chủ cũ.
    2. Nếu bạn không thuộc trường hợp nào theo quy định của Điều luật trên, đồng thời chủ sử dụng đất lại "mất tích" thì trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuộc về các thừa kế của chủ cũ đó. Nếu họ vẫn cố tình không thực hiện việc sang tên thì bạn có thể khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng để Tòa án giải quyết.
       Tuy nhiên, để thực hiện các việc trên thì bạn cần làm rõ hơn hợp đồng mua bán viết tay đó ký vào thời gian nào? Thỏa thuận thế nào? Nguồn gốc đất ra sao?... Nguồn gốc và Hợp đồng đó có đủ điều kiện được cấp giấy hay không? Nếu cấp giấy thì cấp cho ai...Tốt nhất là bạn nên pho to hợp đồng và nhờ Luật sư xem lại giá trị pháp lý hoặc yêu cầu luật sư thực hiện dịch vụ cấp Sổ trọn gói!
    Thân!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 04:24:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 12:31:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Tôi trả lời bạn như sau:
              1. Khoản 12, Điều 38 Luật đất đai quy định: Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp "
    Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.".
             Do vậy, nếu bạn không sử dụng trong thời hạn 01 năm hoặc chậm tiến độ triển khai dự án trong thời hạn 2 năm thì có bị thu hồi đất theo quy định tại khoản 12, Điều 38 Luật đất đai nêu trên.
               2. Nếu lô đất đó thuộc diện được phép chuyển nhượng đất nền như Ls đã nêu thì sau khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bạn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCN QSD đất mà không cần phải đợi theo đợt. Thời hạn sử dụng đất phụ thuộc vào Quyết định phê duyệt dự án của Chủ đầu tư cấp I. Do vậy bạn cần xem lại hồ sơ pháp lý để có câu trả lời (bạn đã ký hợp đồng chuyển nhượng mà không rõ tính chất pháp lý của lô đất là: giao đất có thu tiền sd đất, giao đất không thu tiền sd đất hay thuê đất thì thật là bất cẩn).
               3. Luật đất đai quy định: Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký (ghi tên bên nhận chuyển nhượng vào hồ sơ địa chính). Do vậy nếu Chủ đầu tư phá sản trước khi đăng ký (bạn được cấp giấy chứng nhận) thì về mặt pháp lý tài sản vẫn là của Chủ đầu tư cấp I.
               Thực tế tôi đã từng bảo vệ cho một khách hàng rơi vào trường hợp như bạn hỏi: Công ty A chuyển nhượng QSDĐ khoảng 10.000m2 đất (viết tay) cho Công ty B. từ năm 1997, công ty B đã xây nhà xưởng và hoạt động từ đó. Đến năm 2007 Công ty A được cấp GCN và tiến hành thủ tục sang tên cho công ty B. Khi thủ tục sang tên sắp hoàn tất (đã nộp thuế, chỉ chờ nhận GCN) thì Công ty A bị Tòa án tuyên bố phá sản. Kết quả là lô đất đó vẫn được xác định là tài sản của Công ty A và bị phát mại để thi hành án!
              Do vậy, bạn cần xem lại các thủ tục pháp lý. Nếu trường hợp mua bán hợp pháp thì bạn sang tên càng sớm càng tốt! Tốt nhất là bạn nên pho to giấy tờ để Luật sư gặp bạn trực tiếp để tư vấn cho bạn hoặc thực hiện dịch vụ trọn gói cho bạn.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:53:38 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                       Bố bạn chỉ có thể được cấp sổ nếu bố bạn thuộc các trường hợp quy định tại Điều 49 và Điều 50 Luật đất đai, cụ thể như sau:

    Điều 49. Những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

    Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây:

    1. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trừ trường hợp thuê đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn;

    2. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    3. Người đang sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Luật này mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    4. Người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ; tổ chức sử dụng đất là pháp nhân mới được hình thành do các bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất;

    5. Người được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành;

    6. Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất;

    7. Người sử dụng đất quy định tại các điều 90, 91 và 92 của Luật này;

    8. Người mua nhà ở gắn liền với đất ở;

    9. Người được Nhà nước thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở.

     

    Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.”.

    Trong trường hợp của bạn nhiều khả năng bố bạn sẽ không được cấp Giấy chứng nhận bởi trước đó thửa đất đó đã đứng tên ông bạn.

    2.                       Đối với phần điện tích lấn chiếm bờ sông thì không được cấp Giấy chứng nhận.

    3.                       Nhiều khả năng thửa đất còn lại là tài sản chung của ông nội và bà nội bạn. Nếu ông bạn chết đã quá 10 năm (2001-2011) thì phần sở hữu của ông bạn sẽ do người đang quản lý tiếp tục quản lý. Phần sở hữu của bà bạn, khi bà bạn còn sống thì bà bạn có quyền định đoạt. Khi bà bạn chết mà không để lại di chúc thì thuộc về các thừa kế của bà bạn.
             4. Bạn lưu ý là chú bạn cũng có quyền thừa kế như bố bạn nếu chia thừa kế theo pháp luật. Nếu chia thừa kế theo di chúc mà chú bạn bị mất năng lực hành vi dân sự thì chú bạn còn được thừa kế là 2/3 của một suất.. không phụ thuôc vào nội dung di chúc của ông bà bạn (Điều 669 BLDS)

    Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ nên Luật sư chỉ có thể tư vấn cho bạn như vậy. Bạn cần liên hệ với cán bộ địa chính xã phường để xin cấp Trích lục bản đồ qua các thời kỳ để biết nguồn gốc cụ thể và vận dụng các quy định pháp luật trên để giải quyết trường hợp của bạn. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:36:14 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Tôi nhất trí với ý kiến của bạn! Nếu muốn được tư vấn cụ thể và chính xác, bạn nên pho to hồ sơ để Luật sư xem xét và trả lời cụ thể cho  bạn!
    Thân!
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:33:16 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo tôi, trường hợp của bạn không cần phải yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng bạn mất tích. Bạn có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các quy định tại điểm 2, mục II, Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 về hướng dẫn giải quyết một số tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, cụ thể như sau:

    " Ly hôn có yếu tố nước ngoài

    2.1. Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã đi ra nước ngoài

    Khi giải quyết loại việc này, cần phân biệt như sau:

    a. Đối với những trường hợp uỷ thác tư pháp không có kết quả vì lý do bị đơn sống lưu vong, không có cơ quan nào quản lý, không có địa chỉ rõ ràng nên không thể liên hệ với họ được, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử theo thủ tục chung.

    b. Trường hợp bên đương sự là bị đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn ở trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết như sau:

    - Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết.

    - Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử Toà án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.".

    Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:18:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Khoản 3, Điều 7 thông tư 16/2010/TT-BXD ngày 01 tháng 09 năm 2010 hướng dẫn Nghị định 71/2010/NĐ-CP Quy định: Chủ đầu tư không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức bán nền chưa xây dựng nhà ở nêu tại khoản 5 Điều 16 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP được áp dụng đối với các dự án phát triển nhà ở, dự án khu đô thị mới, dự án khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại các thành phố, thị xã (tính theo ranh giới hành chính, không phân biệt khu vực đô thị và khu vực nông thôn) hoặc tại các khu đô thị mới được quy hoạch thành thành phố, thị xã; đối với các khu vực khác thì chủ đầu tư được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức bán nền nhưng phải có đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật tương ứng trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất."
            Do vậy nếu lô đất bạn mua không thuộc địa giới hành chính là "thành phố, thị xã" hoặc "khu vực đô thị mới được quy hoạch thành phố, thị xã" thì việc chuyển nhượng là hợp pháp nếu đã có đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật tương ứng trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu hợp đồng chuyển nhượng đã hợp pháp theo quy định tại Điều 7 thông tư 16/2010/TT-BXD nêu trên thì bạn hoàn toàn có quyền ký hợp đồng hợp tác xây dựng nhà ở trên lô đất nền đó theo thiết kế đã được phê duyệt với các chủ đầu tư có năng lực.
    Thân ái!
     
  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:04:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 140 BLHS quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng (nay là bốn triệu đồng) đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một (nay là bốn triệu đồng) triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
    Điều luật này được sửa đổi năm 2009 như sau: "Sửa đổi cụm từ "một triệu đồng" thành cụm từ "bốn triệu đồng" tại khoản 1 và bỏ từ "trên" tại điểm d khoản 2 Điều 140".
          Như vậy, việc bạn trả tiền 6 trđ hộ Hương và yêu cầu Đạt hoàn lại số tiền đó cho bạn khi Hương trả tiền là một giao dịch dân sự (hợp đồng). Do vậy nếu sau đó Đạt không hoàn trả tiền cho bạn thì Đạt có thể phạm Tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Tuy nhiên, nếu Đạt không thừa nhận là đã nhận 6 trđ của bạn thì bạn và Cơ quan tố tụng có trách nhiệm chứng minh là Đạt đã nhận được tiền rồi dùng thủ đoạt gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của bạn thì mới có đủ căn cứ xác định là Đạt đã phạm tội theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Trong việc này bạn nến yêu cầu Đạt viết giấy nhận nợ để làm căn cứ giải quyết. Nếu Đạt cố tình không trả thì bạn có thể báo công an để Đạt phải chịu chế tài của pháp luật.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 04:59:30 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào kikimthanh!
    Tôi rất thông cảm với bạn và xin chia sẻ với bạn một số nội dung sau:
    1. Nếu vợ bạn biết lỗi và xin bạn tha thứ thì bạn hãy nghĩ lại vì tương lai của các con. Còn nếu xét thấy vợ bạn không còn khả năng "giáo dục, cải tạo" thì bạn hãy "xử cả đôi"!
    2. Vụ việc của bạn nên giải quyết đồng thời nhiều biện pháp, nhiều cơ quan mới mang lại kết quả tốt: Bạn gửi đơn xin ly hôn tới Tòa án dân sự; Gửi đơn tố cáo đến Cơ quan anh ta để tổ chức có hình thức kỷ luật đính đáng với anh ta.
    Thân!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 04:47:08 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật Hôn nhân & gia đình và các văn bản hướng dẫn không quy định là: Phải có sự thống nhất, thỏa thuận của vợ chồng thì mới hình thành tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân! Mà chỉ quy định là tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng, hình thành từ nguồn tài sản riêng là tài sản riêng (không cần phải có sự đồng ý của bên kia). Tuy nhiên, nếu có tranh chấp xảy ra thì nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản riêng thuộc về bên có tài sản riêng đó. Nếu không chứng minh được là tặng cho riêng, thừa kế riêng.. thì thành tài sản chung. Kể cả quyền sử dụng đất đứng tên một người cũng phải chứng minh là tài sản riêng thì mới là Riêng. Nếu không là tài sản chung.
    Thân!
  • Xem thêm     

    26/09/2011, 04:40:08 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     

    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Điều 424 BLDS quy định có 6 trường hợp chấm dứt hợp đồng lao dân sự là: Công việc hoàn thành; Theo thỏa thuận; chủ thể chết hoặc pháp nhân chấm dứt hoạt động; hợp đồng bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt; Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được; các trường hợp khác do pháp luật quy định.

                2. Theo bạn trình bày thì Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận cho các cháu bạn là “hợp đồng giả” do vậy hợp đồng giữa bạn với hai cháu chưa có hiệu lực pháp luật do vậy cháu của bạn vẫn có quyền đơn phương chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 424 BLDS nêu trên.

                3. Nếu bạn đồng ý chấm dứt hợp đồng thì căn cứ vào giá thị trường để xác định thanh toán tiền chênh lệch giữa hai bên (theo tôi, nếu giá đất tăng thì bạn trả thêm khoảng 60% giá trị chênh lệch cho hai cháu là có tình, có lý).

                4. Nếu tranh chấp xảy ra mà một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì nhiều khả năng Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa bạn và hai cháu bạn là hợp đồng vô hiệu do bạn đã định đoạt vượt quá phần giá trị tài sản của bạn (lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phần nhiều thuộc về bạn). Hậu quả của hợp đồng vô hiệu sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 146 LBDS 1995, theo đó: Bạn trả lại số tiền đã nhận cho cháu bạn, cháu bạn trả lại nhà đất cho bạn. Tòa án sẽ xác định giá trị chênh lệnh của thửa đất thời điểm chuyển nhượng và thời điểm xét xử sơ thẩm. Bên nào có lỗi sẽ phải thanh toán cho bên kia số tiền chênh lệch đó. Nếu hai bên cùng có lỗi thì phải chịu trách nhiệm trong phạm vi lỗi của mình. Theo kinh nghiệm của tôi thì trong trường hợp này bên bạn có lỗi nhiều hơn và phải chịu trách nhiệm khoảng 60 hoặc 70% thiệt hại của bên nhận chuyển nhượng.

                 5. Về tính chất vụ việc, bạn cần biết một số nội dung sau: Điều 671 BLDS (1995) quy định: Di chúc chung vợ chồng có hiệu lực đối với từng phần nếu vợ chồng chết không cùng nhau. Nếu vợ chồng thỏa thuận người sau cùng chết di chúc mới có hiệu lực thì mới theo thỏa thuận đó (quy định khác với BLDS 2005).
         Như vậy, nếu di chúc của mà hợp pháp thì phần di sản của mẹ bạn có hiệu lực từ năm 2002 (phần của bố bạn chưa có hiệu lực do bố bạn vẫn còn sống). Đúng thủ tục thì gia đình bạn phải tiến hành thủ tục khai nhận và phân chia di sản, sau đó mới được chuyển quyền sử dụng đất cho các cháu đối với phần di sản của mẹ bạn (1/2 nhà đất). Nhưng anh em bạn đã chuyển nhượng 2/3 thửa đất đó là vượt quá quyền hạn của mình nên trái pháp luật. Nếu để Tòa án phán xét thì giao dịch đó bị hủy bỏ. Do vậy, để giữ tình cảm gia đinh, bạn nên thỏa thuận giải quyết với các cháu sao cho thỏa đáng thì hơn.

    Chúc bạn thành công!