Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    04/10/2011, 06:33:06 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

             1. Trường hợp của gia đình bạn là đất nông nghiệp được giao cho hộ gia đình sử dụng, khi đó ông của bạn là chủ hộ nên đại diện hộ gia đình đứng tên trên giấy chứng nhận. Nếu bố mẹ bạn và bạn đều trong độ tuổi lao động tại thời điểm giao đất và được giao đất chung với hộ gia đình của ông bạn thì đến nay bạn có quyền yêu cầu chia phần đất đó trong diện tích đất chia chung của hộ gia đình (chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của BLDS). Nếu các thành viên khác không đồng ý chia thì bạn có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

             2. Còn đối với vấn đề thừa kế đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình thì có sự khác nhau giữa j các quy định của BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005. Theo đó, trước thời điểm có hiệu lực của BLDS năm 2005 thì đất nông nghiệp chia cho hộ gia đình không phải là di sản thừa kế. Nếu có một thành viên trong hộ gia đình chết trước năm 2005 thì phần đất nông nghiệp của người đó trong hộ gia đình sẽ thuộc về các thành viên còn lại trong hộ. Nếu thành viên trong hộ gia đình đó chết sau thời điểm có hiệu lực của BLDS 2005 thì phần quyền sử dụng đất của họ trong diện tích đất nông nghiệp được chia chung cho hộ gia đình mới trở thành di sản thừa kế của họ theo quy định pháp luật.

            Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì bạn được quyền yêu cầu chia phần quyền sử dụng đất nông nghiệp của bạn trong tổng diện tích đất nông nghiệp cấp chung cho hộ gia đình theo Nghị định 64/CP năm 1993 về chia đất nông nghiệp. Nếu ông bà bạn và bố mẹ bạn chết trước  thời điểm có hiệu lực của BLDS năm 2005 thì phần đất của ông bà bạn và bố mẹ bạn cũng được chia đều cho các thành viên còn lại. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý là Luật đất đai hiện hành quy định những người có hộ khẩu tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp mới được nhận quyền sử dụng đất trồng lúa nước. Do vậy, nếu bạn không còn hộ khẩu ở địa phương và không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì bạn chỉ có thể nhận tài sản bằng giá trị tiền chứ không được nhận tài sản chung là hiện vật quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa nước.

           Chúc bạn thành công! Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp.
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 05:21:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu địa phương bạn đã quy định: Diện tích tối thiểu để tách một thửa đất là 300m2 đối với đất nông nghiệp (như bạn nói) thì các trường hợp tách thửa ở địa phương đều phải tuân thủ quy định đó thì mới hợp pháp.
           Bạn chỉ có thể được cấp giấy chứng nhận đối với phần diện tích nhỏ hơn 300m2 với điều kiện bạn nhập diện tích đó với một diện tích khác thành một thửa đất để đủ diện tích 300m2 hoặc hai Bên tranh chấp ra Tòa án và có Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án xác định bạn có quyền sử dụng diện tích 125 m2 đất đó. Căn cứ vào Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án bạn xin cấp Giấy chứng nhận mới chứ không phải tiến hành thủ tục tách thửa nữa.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 05:12:26 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn có thể mua xe đứng tên Công ty trong đăng ký xe. Nhưng biển số xe do công an nơi Công ty có trụ sở chính cấp.
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 12:39:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạnQ

          Trong tình huống bạn nêu ra có một vài tình tiết rất "bất hợp lý": "Dì của em được nhà nước cấp một miếng đất 90m2 năm 2009 vì giải tỏa". Như vậy là trường hợp "Tái định cư" theo quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Theo quy định pháp luật thì người được tái định cư phải nộp tiền sử dụng đất bằng với giá trị quyền sử dụng đất mà UBND cấp tỉnh công bố hàng năm trên địa bàn tỉnh. Nếu khoản tiền bồi thường hỗ trợ bằng giá trị đất ở được tái định cư thì bù trừ với khoản tiền đó. Nếu thiếu thì phải nộp thêm tiền theo khung giá Nhà nước, chứ sao lại phải nộp bằng VÀNG?

    Ví dụ Điều 19 nghị định69/2009NĐ-CP quy định về Hỗ trợ tái định cư như sau:

    ". Nhà ở, đất ở tái định cư được thực hiện theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư.

    Đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở mà không có chỗ ở nào khác thì được giao đất ở hoặc nhà ở tái định cư.

    Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở, nhà ở tái định cư mà số tiền được bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá trị một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch đó; trường hợp không nhận đất ở, nhà ở tại khu tái định cư thì được nhận tiền tương đương với khoản chênh lệch đó.

    2. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở mà tự lo chỗ ở thì được hỗ trợ một khoản tiền bằng suất đầu tư hạ tầng tính cho một hộ gia đình tại khu tái định cư tập trung trường hợp đã được nhận khoản tiền hỗ trợ tái định cư quy định tại khoản 1 Điều này.

    3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể tại địa phương quy định về suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này."

             Vậy tại sao Chính quyền lại bắt nộp tiền sử dụng đất bằng vàng? Điều này trái quy định pháp luật!  Vì vậy bạn phải làm rõ khúc mắc này trước khi giao dịch để xem lại giá trị pháp lý của thửa đất.

        2. Còn việc thỏa thuận hợp đồng thế nào để tránh rủi ro thì rất đơn giản:

        Trong hợp đồng thỏa thuận giá trị toàn bộ QSD đất và tài sản với đất là A đồng. Bên Dì bạn được nhận A đồng từ mẹ bạn. Trong trường hợp có nghĩa vụ tài chính với Nhà nước hoặc có các  khoản nợ khác đối với BĐS trước khi chuyển nhượng thì nghĩa vụ thanh toán thuộc về Bên Dì bạn. Mội khoản thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính trước thời điểm chuyển nhượng do Dì bạn có nghĩa vụ thanh toán. Giá cả A đồng do hai bên thỏa thuận. Nếu BĐS chưa được cấp GCN thì có thể lập HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG CÓ ĐIỀU KIỆN để tránh hợp đồng vô hiệu.

          Thân ái!
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 11:53:20 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

           Thực tế, nếu không có  Giấy chứng nhận thì không Phòng công chứng nào đồng ý công chứng hợp đồng vay có thế chấp. Ngân hàng cũng không đồng ý cho người vay thế thấp bằng lô đất KHÔNG CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN. Khi đó TN&MT và các bên có liên quan cũng không còn cơ hội đăng ký thế chấp hoặc giải chấp!
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 11:49:10 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer


    Bổ sung:
    Điều  2 Luật quốc tịch quy định về việc xác định quốc tịch như sau:

    "1. "Quốc tịch nước ngoài" là quốc tịch của một nước khác không phải là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    2. "Người không quốc tịch" là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài.
    3. "Người Việt Nam ở nước ngoài" là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài.
    4. "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài" là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
    5. "Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam" là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam.
    6. "Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam" là công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam."
          Như vậy, chị dâu của bạn là "Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam" và mang quốc tịch nước ngoài chứ không phải là Người Việt Nam (vì không có quốc tịch VN) do vậy phải áp dụng các quy định về quan hệ dân sự có yếu tố ngước ngoài quy định tại PHẦN THỨ BẢY của Bộ luật dân sự. Cụ thể là phải áp dụng quy định tại Điều 767. Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài như tôi đã trích dẫn ở trên để giải quyết trường hợp của anh, chị bạn.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 11:25:26 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
       

    Điều 767 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài như sau:

    "#0070c0;">1. Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.

    #0070c0;">2. Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

    #0070c0;">3. Di sản không có người thừa kế là bất động sản thuộc về Nhà nước nơi có bất động sản đó.

    #0070c0;">4. Di sản không có người thừa kế là động sản thuộc về Nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết"

          Như vậy theo quy định pháp luật trên thì vụ việc chia thửa kế của anh chị bạn phải áp dụng hai hệ thống pháp luật là pháp luật Việt Nam và pháp luật Úc. Đối với nhà đất ở VN thì áp dụng theo pháp luật VN, trại bò sữa ở Úc thì áp dụng luật Úc. Đối với các tài sản khác thì chia đôi và thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của mỗi người.

     Thân ái!

  • Xem thêm     

    03/10/2011, 10:06:12 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn bạn!
    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp.Chúc bạn may mắn.
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 10:05:08 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Đó là vấn đề "khó hiểu" của luật.

     Tại Chương V Nghị định số: 83/2010/NĐ-CP, ngày 23 tháng 07 năm 2010 của Chính phủ quy định về giao dịch bảo đảm có quy định:

    ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

    Điều 52. Hiệu lực thi hành

    1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09 tháng 9 năm 2010 và thay thế Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm.

    2. Bãi bỏ các quy định sau đây:

    ...Quy định về thời hạn người sử dụng đất được thế chấp quyền sử dụng đất tại Điều 66 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;"

                Tuy nhiên tại MỤC 4. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT lại quy định Hồ sơ, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất như sau:

    "Điều 28. Hồ sơ, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

    1. Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất gồm có:

    a) Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm;

    b) Hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng bảo đảm có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật;

    c) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc các Giấy chứng nhận đã cấp qua các thời kỳ;

    d) Bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của người yêu cầu đăng ký; trường hợp người yêu cầu đăng ký là người được ủy quyền thì phải có Văn bản ủy quyền.

    2. Trong thời hạn giải quyết hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện các việc sau:

    a) Ghi nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm vào Giấy chứng nhận quy định tại điểm c khoản 1 Điều này; vào Sổ Địa chính, Sổ theo dõi biến động đất đai theo quy định của pháp luật;

    b) Chứng nhận việc đăng ký vào Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm;

    c) Trả kết quả cho người yêu cầu đăng ký theo quy định tại Điều 19 của Nghị định này.".
           Như vậy, chương V thì quy định là bỏ Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP (không bắt buộc giao dịch bảo đảm phải có GCN). Nhưng trong Mục 4, Chương IV quy định về thủ thục hồ sơ thì vấn phải có: "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc các Giấy chứng nhận đã cấp qua các thời kỳ". Nếu không có GCN thì đăng ký vào đâu? Tôi nghĩ có thể Chương V Nghị định 83 đã có sự nhầm lẫn! Thực tế ở nước ta Pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn nhau rất nhiều: Ví dụ thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo Luật đất đai, Bộ luật dân sự là từ thời điểm đăng ký còn theo Luật công chứng thì có hiệu lực từ thời điểm công chứng. BLDS quy định việc chấm dứt ủy quyền chỉ cần đơn phương là được nhưng Điều 44 Luật công chứng đòi hỏi hai bên phải lập Hợp đồng để hủy việc ủy quyền...
  • Xem thêm     

    03/10/2011, 09:45:39 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trường hợp bạn hỏi được quy định tại Điều 223 Bộ luật dân sự, cụ thể như sau:

    "Định đoạt tài sản chung 

    1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

    2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.

    3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.

    Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

    4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại."

            Do vậy, người anh muốn chuyển quyền sử dụng đất đối với phần tài sản của mình thì phải phải thông báo và nhường quyền ưu tiên mua cho người em. Trong thời hạn 3 tháng mà người em không mua thì mới được quyền chuyển nhượng cho người khác.

            Trong trường hợp người em giữ Giấy chứng nhận, không đưa ra để người anh chuyển nhượng cho người khác, đồng thời cũng đồng ý chia đất để người anh được định đoạt phần riêng của mình thì người anh có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định tại Điều 224 BLDS, cụ thể như sau:

    Chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung 

    1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.

    2. Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”.

               Do vậy, nếu hai anh em không thỏa thuận được việc chia đất thì người anh có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung theo quy định tại Điều 224 BLDS nêu trên.

    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí.

    Thân ái!


  • Xem thêm     

    02/10/2011, 10:01:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Nếu gia đình bạn không đồng ý HIẾN ĐẤT thì chính quyền không thể lấy đất của bạn để làm đường được. Nếu việc mởi đường đó là một quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt và ra Quyết định thu hồi đất thì gia đình bạn sẽ được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP năm 2009 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
            500m2 đất là diện tích lớn, do vậy bạn cần cân nhắc có nên HIẾN đất hay không. Gia đình bạn cũng có thể thương lượng với chính quyền cơ sở về việc đổi đất hoặc hỗ trợ để tránh thiệt thòi. Nhưng bạn lưu ý là chỉ có cấp Huyện mới có thẩm quyền giao đất và thu hồi đất. Quyền quyết định cuối cùng vẫn do gia đình bạn.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 09:52:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Ok! Chúc bạn may mắn và thành công!
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 09:49:26 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi có ý kiến về trường hợp bạn của như sau:
          Theo kinh nghiệm của tôi, trường hợp xin cấp GCN của bạn với "cái ao" đó là có vấn đề rồi. Nếu không có ý kiến "dư luận" và phía UBND cấp xã và cấp huyện "nể tình" thì bạn có thể được công nhận quyền sử dụng đất (cấp GCN lần đầu) là ĐẤT Ở căn cứ vào hiện trạng phù hợp với quy hoạch.
          Còn về "lý" thì thửa đất của bạn khó mà được cấp giấy chứng nhận hoặc có được cấp thì cũng chỉ là ĐẤT NÔNG NGHIỆP (ao) mà thôi bởi trong hồ sơ địa chính, thửa đất của gia đình bạn chắc chắn vẫn ghi là Đất ao. Việc gia đình bạn tự ý san lấp xây nhà khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là hành vi vi phạm luật đất đai. Do vậy nếu Hội đồng xét duyệt của xã không thông qua hoặc có thông qua nhưng UBND huyện không đồng ý cấp GCN thì bạn cũng khó mà có căn cứ khiếu kiện. Hơn nữa. Thực tế các thửa "đất ao" thường bị bao bọc bởi các thửa đất khác, không có đường đi nên khó mà được công nhận là đất ở.
           Do vậy, bạn nên "kính thày, yêu bạn" hoặc làm dịch vụ thì mới "nhanh" được cấp GCN bởi hồ sơ pháp lý của bạn "có vấn đề"!
    Chúc bạn may mắn
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 09:27:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Điều 104 BLHS quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    1. " Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
    2. a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
      b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
      c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
      d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
      đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Có tổ chức;
      g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
      h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
      i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
      k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân."
               Như vậy, dù bạn bị thương tích dưới 11% nhưng hành vi phạm tội của người đó thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1, Điều 104 BLHS thì cũng có thể bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/3/2003 của HĐTP TAND tối cao thì dùng kéo nhọn sắc đâm người cũng là công cụ, phương tiện nguy hiểm nên có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 104 BLHS.
               Tuy nhiên, khoản 1, Điều 104 là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại Điều 105 BLTTHS. Do vậy, nếu bạn có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự thì công an mới xem xét khởi tố. Nếu trước thời điểm xét xử mà bạn rút đơn thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu bạn không có đơn đề nghị khởi tố thì công an sẽ không xử lý hình sự.

               Thực tiễn thì những việc như của bạn, công an thường hòa giải để các bên giải quyết dân sự, bồi thường cho nhau. Nếu tính chất nghiêm trọng, căng thẳng thì mới khởi tố. Do vậy bạn nên cân nhắc, nếu không giải quyết được về mặt dân sự thì bạn có có để gửi đơn đề nghị công an giải quyết.
      Thân ái!
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 09:03:41 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng. Trong vấn đề này, tôi đồng ý với cách hiểu của bạn.
            Một vấn đề có thể có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng chỉ có một quan điểm đúng. Một quy định pháp luật cũng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng vấn đề là phải hiểu đúng tinh thần của nhà làm luật thì mới áp dụng đúng pháp luật. Trong thủ tục pháp lý thì quan điểm đúng là quan điểm mà pháp luật đã quy định. Nếu pháp luật không quy định  hoặc quy định không rõ thì quan điểm của người có "thẩm quyền giải quyết" sẽ là "chân lý".
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 05:01:26 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Tôi đồng ý quan điểm của Luật sư Nguyễn Hòa. Bạn cần yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết nếu không được thì khiếu nại xem Tòa án trả lời sao? Trường hợp của bạn có thể áp dụng hướng dẫn của TAND TC tại Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP về TTDS.
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 04:53:03 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Trường hợp như của gia đình bạn cũng không hiếm gặp và nhiều Tòa cũng "bó tay". Về lý thì cuộc hôn nhân sau là trái pháp luật do vi phạm hôn nhân một vợ một chồng. Bởi hiện giờ pháp luật VN chỉ quy định HÔN NHÂN THỰC TẾ chứ không quy định có LY HÔN THỰC TẾ. Có những trường hợp tình cảm vợ chồng thực sự TRẦM TRỌNG, họ ly thân mấy chục năm nay nhưng không ly hôn thì họ vẫn là vợ chồng. Nếu họ không có bản án, quyết định của Tòa án cho ly hôn thì họ không thể xác lập quan hệ hôn nhân mới với người khác được.  Hiện nay "Dân luật" đang có kiến nghị để Nhà nước có văn bản chính thức công nhận LY HÔN THỰC TẾ để giải quyết các vụ việc cho linh hoạt!
           
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 04:41:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Theo kinh nghiệm của tôi thì trong tranh chấp đất đai, chứng cứ quan trọng là nguồn gốc của thửa đất đó làm căn cứ xác lập chủ sử dụng hợp pháp thể hiện ở hồ sơ địa chính ở các cấp chính quyền chứ không phải ở các giấy tờ mà các bên xuất trình (kể cả GCN QSD Đ, bởi hiện nay GCN QSD Đ bị cấp sai không phải ít)!
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 04:32:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi trả lời bạn như sau:
         1. Khoản 2, Điều 265 BLTTDS quy định như sau: Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Tòa án hoãn phiên tòa. Người kháng cáo được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toa án đình chỉ giải quyết vụ án.
         Như vậy, nếu người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất không có lý do chính đáng thì Tòa án có quyền đình chỉ vụ án không? Luật không quy định. Nhưng TAND tối cao đã hướng dẫn các tòa cấp dưới trong các lần tổng kết ngành là; Vắng mặt lần thứ nhất dù không biết có lý do chính đáng hay không thì Tòa án cũng sẽ hoãn phiên tòa. Thực tiễn tranh tụng của tôi thì trường hợp như vậy xảy ra rất nhiều và Tòa luôn hoãn phiên tòa nên không bao giờ tôi phải chờ cả buổi như bạn. Nếu trong trường hợp đó tòa án cố tình đình chỉ vụ án thì cũng không trái luật (chỉ trái luật bất thành văn) nhưng nếu sau đó người kháng cáo có căn cứ chứng minh là họ vắng mặt do lý do bất khả kháng thì Quyết định đình chỉ đó bị hủy để giải quyết lại vụ án.
            2. Khoản 4 của Điều 265 quy định thời hạn hoãn phiên tòa phúc thẩm như thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm quy định tại Điều 208 BLTTDS là không quá 30 ngày, kể từ ngày hoãn phiên tòa. Do vậy, nếu tòa án hoãn quá 30 ngày là trái luật. Tuy nhiên sai thực tế còn nhiều sai phạm tố tụng nghiêm trọng vẫn diễn ra hàng ngày như: Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự không quá 4 tháng (Điều 179 BLTTDS) nhưng thông thường phải nửa năm mới xử xong án sơ thẩm... thậm chí có những vụ án dân sự NHIỀU năm vẫn chưa xong!
           Tóm lại việc hoãn phiên tòa mà bạn nói là có thể chấp nhận được, còn việc chậm mở phiên tòa là vi phạm tố tụng "nhỏ'. Bạn có quyền khiếu nại việc này đến chánh án TAND tỉnh và có quyền yêu cầu đại diện VKS tham gia phiên tòa để đảm bảo sự khách quan.
           Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 04:04:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

           1. Cần xem lại nguồn gốc thửa đất đó và thời điểm xác định quan hệ hôn nhân để biết được tài sản đó là của ai: Nếu thửa đất trước đây có tên bố anh bạn đó, đồng thời quan hệ hôn nhân của bố anh ấy với bà vợ hai là hôn nhân thực tế (chung sống trước ngày 25/3/1977 ở Miền Nam) thì dù họ không có đăng ký kết hôn thì theo Luật hôn nhân năm 1959 thì theo quy định tại Điều 15 của luật này, ngôi nhà và thửa đất đó cũng là tài sản chung của ông bố với bà cả và vợ hai (tài sản chung vợ chồng).

          2. Bạn cần xem lại thời hiệu về thừa kế: Anh bạn kia được thừa kế đối với phần tài sản của bố nhưng với điều kiện bố anh ta chết không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc cho anh ta được hưởng thừa kế. Đồng thời đến nay vẫn còn thời hiệu chia thừa kế (bố anh đó chết chưa quá 10 năm) thì anh ấy mới có thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về thừa kế. Nếu bố anh ta đã chết quá 10 năm, đồng thời người con riêng của bố không đồng ý chia thừa kế thì Tòa án sẽ không thụ lý vụ án yêu cầu chia thừa kế đó.

           Nếu thửa đất chưa có GCN QSD đất và không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1, 2 và khoản 5, Điều 50 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND.

           Vậy căn cứ vào các nguyên tắc trên để bạn tìm ra hướng giải quyết vụ việc cho anh ta. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí!

    Thân ái!