Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    02/11/2011, 12:11:49 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, Chúc bạn sớm giải quyết được vụ việc của mình. Chào bạn!
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 11:35:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Điều bạn thắc mắc rất có căn cứ. Nếu theo các quy định tại Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Nghị quyết 02/1990/NQ-HĐTP; Nghị quyết 58/1998/NQ-NQUBTVQH10 thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất đối với trường hợp chết trước ngày 10/9/1990, tính đến ngày 10/9/2000 là hết thời hiệu khởi kiện; Đối với di sản là nhà ở thì theo Nghị quyết 58, thời gian từ 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu thừa kế nên được kéo dài thời hiệu thêm 2 năm 6 tháng nữa. Như vậy là đến ngày 10/3/2003 sẽ hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản là nhà ở mà người để lại di sản chết trước ngày 10/9/1990.
           Tuy nhiên cái mốc ngày 30/12/2003 là tôi tính theo một quan điểm của Tòa dân sự TAND tối cao được đề cập trong Hội nghị triển khai công tác của ngành TAND năm 2010 (trang 49). Ở hội nghị này, các Tòa án địa phương đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản là quyền sử dụng đất (có 3 quan điểm căn cứ vào các quy định về quyền thừa kế quyền sử dụng đất của Luật đất đai năm 1993 và Luật đất đai năm 2003). Thực tiễn xét xử ở các địa phương cũng có một số trường hợp áp dụng thời hiệu khởi kiện khác nhau (do các quy định của Luật đất đai). Có địa phương còn kiến nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện quyền sử dụng đất được tính từ mốc 15/10/1993 do lý giải là trước đó luật chưa quy định về thừa kế về QSD đất nên đó là trở ngại khách quan... Sau hội nghị đó, các Tòa án địa phương cũng đang chờ đợi một văn bản chính thức của TAND tối cao để thống nhất áp dụng thời hiệu khởi kiện thừa kế về QSD đất.
           Hiện nay, quan điểm lấy hai mốc là ngày 10/9/2000 (đối với đất) và ngày 10/3/2003 (đối với nhà)  để tính thời điểm hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đối với trường hợp mở thừa kế trước ngàyl10/9/1990 là quan điểm rộng rãi nhất, nó phù hợp với các văn bản pháp luật đang có hiệu lực pháp luật. Cá nhân tôi cũng có quan điểm nên lấy hai mốc này cho đến khi pháp luật có quy định khác.
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 10:43:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư nhất trí với ý kiến của bạn: Kể từ ngày 01/01/2010 Tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 BLHS năm 1999 đã bị bãi bỏ theo Luật số 37/2009/QH12.
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 10:32:42 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
               1. Để giải quyết nhanh chóng sự việc trên, gia đình bạn cần có đơn trình bày sự việc và yêu cầu tháo dỡ công trình xây dựng sai phép gửi tới UBDN phường và Thanh tra xây dựng của Quận để can thiệp kịp thời. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành lập biên bản, yêu cầu chủ đầu tư ngừng thi công, nếu chủ đầu tư không chấp hành thì sẽ bị đình chỉ thi công và buộc phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. Sau đó nếu chủ đầu tư không tháo dỡ thì sẽ bị cưỡng chế tháo dỡ. Bạn có thể xem thêm các quy định tại Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị để vận dụng.
               2. Ngoài ra hành vi lấn chiếm không gian trên đối với gia đình bạn còn là vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của gia đình bạn nên bạn có quyền khởi kiện một vụ án dân sự để buộc gia đình trên phải tháo dỡ phần diện tích xây dựng trái phép và bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra đối với gia đình bạn.
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 10:18:03 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
                1. Tội cho vay nặng lãi chỉ áp dụng với đối tượng chuyên sống bằng NGHỀ bóc lột người khác bằng việc cho vay nặng lãi. Mức vay phải lớn bằng từ 10 lần lãi suất cao nhất mà Nhà nước quy định trở lên thì mới được gọi là nặng lãi.
           Cụ thể như sau:

    "Điều 163. Tội cho vay lãi nặng

    1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lêntính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

    2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

                 
    Tóm lại phải đủ cả hai điều kiện là lãi suất cao từ 10 lẫn lãi suất cao nhất mà Nhà nước trở lên và chuyên sống bằng "nghề" cho vay nặng lãi mới cấu thành Tội cho vay nặng lãi theo quy định tại Điều 163 BLHS. Như vậy, bạn hoàn có thể yên tâm bởi việc cho vay nợ của bạn không cấu thành tội phạm nên không thể bị xử lý hình sự.
                  2. Bạn có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau, miễn là thu thập được chứng cứ về việc giao tiền là bạn có cơ hội đòi lại.
    Chúc bạn thành công!





  • Xem thêm     

    01/11/2011, 10:02:46 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Khi Cơ quan Thi hành án tiến hành thủ tục kê biên, phát mại tài sản thế chấp thì gia đình bạn không thuộc trường hợp được ưu tiên mua nhà theo quy định của pháp luật (chỉ có những hộ đang thuê nhà hoặc đồng sở hữu). Tuy nhiên, thực tế thì các gia đình như gia đình bạn sẽ được ưu tiên mua tài sản đó.
                2. Trong vụ việc này Ngân hàng cũng có thiếu sót, nhưng thiếu sót đó không làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại với các gia đình mua bán viết tay đó.
                3. Chỉ với thông tin mà bạn đưa ra thì việc làm của chủ đất chưa có dấu hiệu tội phạm, trừ trường hợp người đó bỏ trốn hoặc cơ quan tố tụng chứng minh được là người đó có sự gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của các gia đình mua đất. Việc xác định tội phạm còn phụ thuộc vào thái độ và hành vi tiếp theo của người bán nhà đất.
               4. Trong trường hợp này, gia đình bạn nên khởi kiện để yêu cầu bên bán nhà bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu. Bên bán có lỗi 100% và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho các gia đình (số tiền chênh lệch do giá đất tăng lên và tiền tôn tạo làm tăng giá trị đất...).
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 09:49:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì, chào bạn!
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 09:48:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
     Điều 25, Quyết định 68/2010/QĐ-UBND quy định như sau:
    1. Đối với công trình đã được cấp giấy phép xây dựng theo quy định ban hành kèm theo các Quyết định số 217/2004/QĐ-UB ngày 17 tháng 9 năm 2004, Quyết định số 04/2006/QĐ-UBND ngày 17 tháng 01 năm 2006 và Quyết định này: Chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng và nhà thầu tư vấn thiết kế xây dựng phải tổ chức nghiệm thu và lập biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình xây dựng (theo Mẫu số 7 của Phụ lục 4 ban hành kèm theo Quyết định này).
    2. Đối với công trình đã được cấp giấy phép khởi công xây dựng theo Quyết định số 204/QĐ-UB ngày 24 tháng 6 năm 1991, Giấy phép xây dựng theo Quyết định số 1328/QĐ-UB-QLĐT ngày 06 tháng 9 năm 1993, Quyết định số 3217/QĐ-UB-QLĐT ngày 26 tháng 6 năm 1997 và Quyết định số 58/2000/QĐ-UB-ĐT ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Ủy ban nhân dân thành phố mà chưa được cơ quan có thẩm quyền trao giấy phép xây dựng chính thức (bước 2) hoặc cấp biên bản kiểm tra công trình hoàn thành: Chủ đầu tư phải liên hệ đơn vị tư vấn thiết kế có tư cách pháp nhân hoặc nhà thầu xây dựng để xác lập bản vẽ cùng biên bản nghiệm thu theo hiện trạng công trình (theo Mẫu số 8 của Phụ lục 4 ban hành kèm theo Quyết định này).
              Như vậy, trong trường hợp trên, công trình của bạn đó đã xây dựng được 3 năm nay (trước năm 2010) nên chỉ cần lập Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình theo Mẫu số 7 chứ không cần phải lập Biên bản hoàn công.
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 09:35:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn bạn!
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 04:44:59 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    "Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

    1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

    a) Không có di chúc;

    b) Di chúc không hợp pháp;

    c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

    d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

    2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

    a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

    b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

    c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.".


              Như vậy trường hợp bạn hỏi được quy định tại khoản 2, Điều 675 BLDS:


          - Đối với 1/3 di sản không được định đoạt trong di chúc thì được chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất (cha, mẹ, chồng, con của người chết).


           - Đối với 2/3 di sản định đoạt trong di chúc: nếu di chúc không hợp pháp hoặc người được nhận thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với bà mẹ đó thì phần di sản này cũng có thể được chia theo pháp luật


          Việc chia thừa kế theo pháp luật được quy định tại Chương XXIV BLDS.

  • Xem thêm     

    01/11/2011, 02:48:39 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                      Đối với khoản tiền đặt hàng: Khoản tiền này bạn giao cho người ta nhưng không có giấy tờ gì nên sẽ khó đòi. Bạn cần thu thập thêm các tài liêu, chứng cứ về việc người đó cầm tiền của bạn nhưng chưa giao hàng (Giấy xác nhận, băng đĩa ghi âm, ghi hình, Email…) thì mới có căn cứ để pháp luật giải quyết.

    2.                      Đối với khoản tiền vay hộ: Pháp luật không quy định hợp đồng vay tài sản phải có công chứng, chứng thực mới hợp pháp. Do vậy chỉ cần giấy vay tiền viết tay là hợp pháp rồi. Bạn xem lại thời hạn trả tiền mà hai bên thỏa thuận là khi nào? Họ đã vi phạm hợp đồng vay chưa?

    3.                      Việc đòi nợ có rất nhiều cách, nhiều biện pháp: Bạn có thể nhờ pháp luật giải quyết (công an, Tòa án) hoặc có thể ủy quyền cho người khác đòi nợ. Nếu trong vụ việc của bạn có dấu hiệu của tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bạn nên nhờ công an giải quyết.

    Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    01/11/2011, 02:25:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, cảm ơn bạn!
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 02:25:08 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
          Trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật, các thừa kế có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của người chết để lại. Tuy nhiên, Tòa án có chấp nhận yêu cầu khởi kiện đó không lại là chuyện khác.
         Trong vụ việc trên cần phải xem lại hiệu lực của di chúc. Nếu di chúc không có hiệu lực thì các thừa kế khác mới còn cơ hội được chia thừa kế của bà cụ.
         Còn yêu cầu chia tài sản chung đối với phần di sản hết thời hiệu của cụ ông thì rất khó được Tòa án chấp nhận . Tòa án chỉ có thể chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung nếu có sự đồng thuận của tất cả các thừa kế xác định là tài sản chưa chia và cùng yêu cầu tòa án chia  tài  sản đó (ông cậu đó sẽ không đồng ý chia tài sản chung). Vấn đề chia tài sản chung bạn cần xem lại quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao.

  • Xem thêm     

    01/11/2011, 02:15:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                      Việc tranh cãi bức tường của nhà ai sẽ không còn nhiều ý nghĩa nữa nếu bức tường đó được “mọc lên” trên phần đất của nhà hàng xóm. Nếu khi đo đạc lại diện tích đất đang sử dụng của hai nhà và so với hai GCN QSD đất mà bức tường đó thuộc phần đất của nhà hàng xóm thì họ có quyền sử dụng bức tường đó. Nếu gia đình bạn có chứng cứ chứng minh là gia đình bạn đã bỏ tiền của, công sức xây dựng bức tường thì mới có thể được hàng xóm thanh toán phần giá trị xây dựng.

    2.                      Việc giải quyết vụ việc đó nhanh nhất thì chỉ có con đường hòa giải (nếu mỗi bên chịu nhượng bộ một chút). Nếu phải để Tòa án giải quyết bằng bản án thì vụ việc có thể kéo dài cả năm trời mới xong.

    3.                      Trong trường hợp này, UBND phường chỉ có thẩm quyền hòa giải chứ không có quyền buộc gia đình hàng xóm tháo dỡ hàng rào đó (trừ trường hợp xây dựng trái phép, lấn chiếm đất công cộng…). Nếu bạn không thể hòa giải được thì có thể khởi kiện để Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    4.                      Khi vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm thì gia đình bạn không có quyền tự ý dỡ bỏ hàng rào đó. Việc tự ý dỡ bỏ có thể dẫn đến xung đột căng thẳng giữa hai gia đình.

    Tóm lại: Gia đình bạn chỉ có thể bảo toàn, duy trì được bức tường đó nếu bức tường được gia đình bạn xây dựng trên diện tích đất nằm trong GCN QSD đất của gia đình bạn. Do vậy bạn cần xem lại diện tích đất thực tế sử dụng so với GCN QSD đất của hai nhà đồng thời thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh việc xây dựng bức tường đó là do gia đình bạn thực hiện.

  • Xem thêm     

    01/11/2011, 12:51:12 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
             1. Theo nội dung thông tin bạn đưa ra thì thửa đất đó là đất khai hoang, gia đình bạn đã sử dụng ổn định, liên tục từ trước ngày 15/10/1993 (ngày luật đất đai năm 1993 có hiệu lực). Do vậy, nếu đến nay thửa đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và không có tranh chấp thì gia định bạn  thuộc trường hợp quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và có thể được công nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất đó mà không phải nộp tiền sử dụng đất. Thời hạn sử dụng đất sẽ căn cứ vào loại đất (Điều 13 Luật đất đai) thể hiện trong hồ sơ địa chính hoặc căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất.
             2. Nếu trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 50 Luật đất đai và không đủ điều kiện để được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp GCN lần đầu). Đồng thời thửa đất đó đang được Nhà nước quản lý thì bạn có thể lựa chọn hình thức xin được giao đất (có thu tiền hoặc không thu tiền sử dụng đất) hoặc thuê đất thời hạn 50 năm (trả tiền 1 lần hoặc trả tiền hàng năm) theo quy định của pháp luật.
            3. Bạn có thể tham khảo trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất được quy định tại Điều 122 Luật đất đai như sau:

    "Điều 122. Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được giao đất, thuê đất 

    1. Việc nộp hồ sơ xin giao đất, thuê đất được quy định như sau:

    a) Tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài xin giao đất, thuê đất nộp hai bộ hồ sơ tại cơ quan quản lý đất đai của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất.

    Hộ gia đình, cá nhân xin giao đất, thuê đất nộp hai bộ hồ sơ tại cơ quan quản lý đất đai của huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có đất;

    b) Hồ sơ xin giao đất, thuê đất gồm đơn xin giao đất, thuê đất; dự án đầu tư của tổ chức theo quy định của pháp luật về đầu tư; đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thì phải có dự án đầu tư và bản sao giấy phép đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư có chứng nhận của công chứng nhà nước.

    2. Việc giao đất, cho thuê đất đối với đất đã được giải phóng mặt bằng được quy định như sau:

    a) Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính khu đất xin giao, xin thuê; xác định mức thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thực hiện các thủ tục về giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định và trao quyết định giao đất hoặc cho thuê đất cho người được giao đất, thuê đất;

    b) Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày người được giao đất, thuê đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, cơ quan quản lý đất đai ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất, tổ chức bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được giao đất, thuê đất.

    3. Việc giao đất, cho thuê đất đối với đất chưa được giải phóng mặt bằng được quy định như sau:

    a) Trong thời hạn không quá ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm hoàn thành việc giới thiệu địa điểm; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính khu đất xin giao, xin thuê; xác định mức thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thực hiện các thủ tục về giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định và trao quyết định giao đất hoặc cho thuê đất cho người được giao đất, thuê đất;

    b) Căn cứ vào quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng;

    c) Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong việc giải phóng mặt bằng và người được giao đất, thuê đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, cơ quan quản lý đất đai ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất; tổ chức bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được giao đất, thuê đất.".


  • Xem thêm     

    01/11/2011, 12:35:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                1. Bạn dùng thuật ngữ pháp luật chưa chính xác: Chỉ có UBND xã chứ không có "ủy ban thôn". Thôn, buôn, sóc, bản, mường... không phải là một cấp hành chính.
                2. Việc đòi đất của nội bạn phải có chứng cứ thì mới đòi được. Bạn cần trình bày thêm là nguồn gốc thửa đất đó thế nào? Trước khi giao cho chính quyền địa phương sử dụng thì nội bạn đã sử dụng được bao lâu? Có giấy tờ gì không? Trên hồ sơ địa chính qua các thời kỳ thể hiện tên chủ sử dụng đất thế nào?...
                3. Bạn cần kiểm tra lại xem thửa đất đó của ông nội bạn có bị Nhà nước quản lý khi thực hiện chính sách đất đai trước đây hay không?
               Tóm lại: Nội bạn chỉ có thể đòi lại được đất nếu có chứng cứ (văn bản, giấy tờ) chứng minh thửa đất đó là của nội bạn trước khi cho chính quyền địa phương mượn và thửa đất đó chưa bị Nhà nước quản lý trong thời kỳ cải tạo nhà đất trước đây. Bạn cần cung cấp thêm thông tin để các Luật sư tư vấn cho bạn!
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 12:14:11 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           1. Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 5, BLTTDS, cụ thể như sau:

    "Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

    1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

    2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội."

    Như vậy, nếu vợ của anh bạn đó khởi kiện yêu cầu ly hôn, chia con và yêu cầu chia tài sản thì Tòa án phải giải quyết cả 3 nội dung đó. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn thì sẽ giải quyết yêu cầu chia con và yêu cầu chia tài sản. Chỉ cần một bên (nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) có yêu cầu là Tòa án xem xét giải quyết, không cần phải có sự đồng thuận của các đương sự khác. Nếu anh bạn đó không yêu cầu chia tài sản nhưng chị vợ có yêu cầu thì Tòa án vẫn xem xét giải quyết.

           2. Điều 288 BLTTDS năm 2004 quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
  • Xem thêm     

    01/11/2011, 11:45:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
          Vấn đề quan trọng của chị bạn là làm sao để Tòa án xử lý người có tội theo đúng quy định của pháp luật và bồi thường thiệt hại cho chị bạn được thỏa đáng. Nếu Tòa án chỉ có vi phạm  thủ tục tố tụng (luật hình thức) nhưng nội dung vụ án đã giải quyết đúng pháp luật thì bạn có thể khuyên chị bạn hãy "bỏ qua". Còn nếu Tòa án xét xử nội dung không đúng hoặc cả nội dung và hình thức đều không đúng pháp luật thì hãy kháng cáo.
  • Xem thêm     

    31/10/2011, 10:57:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Hoàn công là thủ tục để chứng minh công trình đã hoàn thành việc xây dựng và có thể đưa vào sử dụng. Việc hoàn công cũng là một căn cứ để được cấp GCN QSH nhà ở. 
             Ở TP HCM thì thủ tục hoàn công đã được bãi bỏ từ ngày 01/10/2004 trên cơ sở Quyết định số 217/2004/QĐ-UBND về cấp phép xây dựng của UBND thành phố HCM. Do vậy, bạn có thể căn cứ vào giấy phép xây dựng và biên bản nghiệm thu công trình ký trực tiếp với chủ đầu tư là đủ điều kiện xin cấp GCN QSH nhà mà không cần phải thực hiện thủ tục hoàn công có xác nhận của cán bộ QLĐT như trước đây nữa.
  • Xem thêm     

    31/10/2011, 10:45:55 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Điều 122  BLHS quy định Tội vu khốngnhư sau:

    "1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    c) Đối với nhiều người;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

    đ) Đối với người thi hành công vụ;

    e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

             Như vậy, người ta không mua nhà đất của bạn mà lại bịa ra là có mua, không giao tiền cho bạn mà bịa là có giao tiền cho bạn... để loan tin nhằm xúc phạm danh dự của bạn hoặc tố cáo bạn với cơ quan có thẩm quyền thì mới phạm tội vu khống. Còn trong trường hợp này có việc mua bán thực, bạn là người đứng tên nhà đất, thủ tục kéo dài nên người ta khiếu kiện là có căn cứ. Còn việc đúng sai thế nào thì sau này Tòa án sẽ phân định. Do vậy bạn cần xem lại nội dung sự việc và đối chiếu với Điều 122 BLHS xem có nên tố giác hành vi của họ hay không.

            Nếu hành vi của họ gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của bạn thì bạn có quyền khởi kiện một vụ án dân sự, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại chương XXI BLDS. Tòa án nơi người mua đất cư trú sẽ có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của bạn. Tuy nhiên, để Tòa án chấp nhận yêu cầu của bạn thì bạn phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại do hành vi của người mua đất trực tiếp gây ra thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bạn.