Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    21/11/2011, 11:29:57 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
    Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về những người được thừa kế theo pháp luật như sau:

    "Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

               Như vậy, theo quy định của pháp luật thì những người con riêng của bố bạn cũng có quyền hưởng thừa kế như các anh, chị em ruột của bạn (cùng một tư cách là CON ĐẺ của người chết). Tuy nhiên, việc chia thừa kế đó thì nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh tài sản nào là di sản của bố bạn để lại. Nếu chứng minh được là bố bạn có di sản để lại cho các thừa kế thì tòa án mới chấp nhận yêu cầu chia thừa kế. Nếu nhà đất đứng tên mẹ bạn nhưng con riêng của bố bạn chứng minh được là bố bạn có góp tiền của, công sức để tạo lập nên khối tài sản đó và yêu cầu chia thừa kế thì yêu cầu của họ vẫn được tòa án chấp nhận.

    Bạn nhớ lần sau gửi nội dung bằng tiếng Việt, có dấu để Luật sư và các thành viên của Danluat.thuvienphapluat.com hiếu đúng nội dung trình bày của bạn.


  • Xem thêm     

    21/11/2011, 10:43:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
             Thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 20 và Điều 23 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi năm 2004 và năm 2005), cụ thể như sau:

    "Điều 20. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền:

    1- Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình;

    2- Giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại.

    Điều 23. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) có thẩm quyền:

    1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình;

    2. Giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại;

    3. Giải quyết khiếu nại mà Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.”.

              Như vậy, căn cứ vào quy định của Luật khiếu nại tố, cáo thì trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt và quyết định tạm đình chỉ thi công công trình (Điều 31) thì cô bạn có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND quận Hoàng Mai để được giải quyết. Nếu trong thời hạn 30 ngày mà đơn khiếu nại không được giải quyết hoặc có quyết định giải quyết nhưng cô bạn thấy không thỏa đáng thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội hoặc khởi kiện đến TAND quận Hoàng Mai để được giải quyết.

            Lưu ý: Theo quy định mới của Luật tố tụng hành chính thì cô bạn có quyền khởi kiện vụ án hành chính (thời hiệu khởi kiện là 1 năm) đến TAND quận Hoàng Mai để được giải quyết mà không nhất thiết phải qua thủ tục khiếu nại lần đầu (bỏ qua thủ tục tiền tố tụng).
    Bạn có thể xem thêm Luật khiếu nại, tố cáo và Luật tố tụng hành chính để biết thêm chi tiết. Nếu cần tư vấn thêm, bạn hãy đặt câu hỏi để Luật sư trả lời cho bạn.


  • Xem thêm     

    20/11/2011, 09:57:59 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn cantho500!
            Bản án ly hôn của cha mẹ bạn đã được thi hành: Ai nuôi con nào thì được quản lý tài sản của con đó. Phần tài sản mà chị em bạn được chia theo bản án ly hôn đã được giao cho cha bạn. Nay chị em bạn đã trưởng thành nên có thể yêu cầu cha bạn giao lại phần tài sản mà cha bạn đã quản lý trước đây. Nếu cha bạn không đồng ý thì chị em bạn có quyền khởi kiện đòi tài sản theo quy định của pháp luật. Nếu trong bản án đó có ghi là: Khi nào chị em bạn trưởng thành thì cha bạn phải giao lại số tiền đó cho chị em bạn thì chị em bạn mới không phải khởi kiện bằng một vụ án khác mà có thể yêu cầu thi hành nội dung theo bản án đã tuyên.    
           Theo luật thi hành án thì thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm kể từ ngày chị em bạn đủ 18 tuổi.

           Tuy nhiên, số tài sản đó có thể sẽ không còn nguyên theo nội dung bản án đã tuyên đâu bởi số tiền đó có thể được trừ đi tiền chi phí phát sinh (ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ bạn) trong thời gian cha bạn nuôi chị em bạn (bồi thường thiệt hại, nếu có).
           Bạn cần cung cấp thêm thông tin để Luật sư tư vấn cụ thể cho bạn.
  • Xem thêm     

    20/11/2011, 08:58:37 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. ĐỐI VỚI DI CHÚC:
    - Di chúc của bố bạn chỉ hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 652 BLDS, cụ thể như sau:

    "Điều 652. Di chúc hợp pháp

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực."

    - Điều 667 BLDS quy định về hiệu lực của di chúc như sau:

    "Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc

    1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.

    2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:

    a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

    b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

    Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.

    3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.

    4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.

    5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật."

    - Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định về việc giữ di chúc như sau:

    "Điều 665. Gửi giữ di chúc

    1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.

    2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.

    3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:

    a) Giữ bí mật nội dung di chúc;

    b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;

    c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.

    Điều 666. Di chúc bị thất lạc, hư hại

    1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.

    2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.".


             Như vậy, bạn có thể đến Văn phòng luật sư nơi bố bạn lập di chúc (nơi lưu giữ di chúc) để yêu cầu giao di chúc cho người có quyền công bố di chúc hoặc công bố di chúc theo nội dung ghi trong di chúc theo quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 665 BLDS nêu trên.


            Sau khi có được bản di chúc đó, đối chiếu với các quy định tại Điều 652  và Điều 667 BLDS mà tôi trích dẫn ở trên để biết di chúc của bố bạn có hợp pháp và có hiệu lực hay không.


           2. ĐỐI VỚI BIÊN BẢN CHIA GIA SẢN:


             Việc chia gia sản (tài sản chung của gia đình) bản chất là chia tài sản chung. Do vậy, nếu số tiền đó là tài sản chung của gia đình bạn và đã được phân chia cho các thành viên thì việc phân chia đó đã hoàn thành. Pháp luật không bắt buộc việc chia tiền phải lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Do vậy, gia đình bạn chỉ cần lập văn bản, có chữ ký của các thành viên là có đủ căn cứ xác định là việc chia tài sản đã được thực hiện.


             Nếu số tiền trong Biên bản chia gia tài đó là tài sản riêng của bố bạn và bố bạn đã chia cho các con trước khi chết, đồng thời sau đó bố bạn lại lập di chúc (hoặc lập di chúc trước khi chia tiền) thì di chúc đó của bố bạn cũng không có hiệu lực do DI SẢN KHÔNG CÒN theo quy định tại khoản 3, Điều 667 BLDS.


            Nếu còn nội dung gì chưa rõ, bạn có thể đặt câu hỏi để Luật sư trả lời cho bạn.


  • Xem thêm     

    19/11/2011, 10:32:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
             1. Ngôi nhà đó được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản chung vợ chồng, theo đó bạn chỉ có quyền định đoạt 1/2 giá trị ngôi nhà đó. Nếu không có ý kiến của chồng bạn thì không bao giờ bạn có thể sang tên toàn bộ căn nhà đó cho người mua (trừ trường hợp bạn là thừa kế duy nhất của chồng bạn);
             2. Việc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích theo quy định tại Điều 78 BLDS chỉ được Tòa án chấp nhận nếu người đó đã biệt tích liên tục từ 2 năm trở lên. Do vậy, trong trường hợp này bạn không thể yêu cầu tòa án tuyên bố chồng bạn mất tích được (chưa đủ thời gian...);
             3. Chồng bạn đã bỏ đi được hơn 1 năm do vậy bạn có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng bạn vắng mặt khỏi nơi cư trú theo quy định tại Điều 74 BLDS. Theo đó xác định luôn phần tài sản của bạn và phần tài sản của chồng bạn. Phần tài sản của bạn thì bạn có thể sang tên cho người mua, còn phần tài sản của chồng bạn do bạn quản lý thì có thể ủy quyền cho người mua tiếp tục sử dụng. Nếu sau này chồng bạn trở về hoặc bị tuyên bố chết thì xử lý phần đó sau. Để giải quyết tình thế về tiền thì bạn có thể yêu cầu bên bán đặt cọc tiền trước và bạn có thể giao nhà cho họ sử dụng.
    Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây của BLDS để vận dụng:

    “Điều 74. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó
    Khi một người biệt tích sáu tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt quy định tại Điều 75 của Bộ luật này.

    Điều 75. Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú
    1. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho những người sau đây quản lý:
    a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý;
    b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
    c) Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
    2. Trong trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Toà án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản.
    Điều 78. Tuyên bố một người mất tích
    1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.

    Điều 79. Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích
    Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Toà án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật này.
    Trong trường hợp Toà án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản.”

  • Xem thêm     

    19/11/2011, 06:47:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Trường hợp của gia đình bạn đã được cấp GCN quyền sử dụng đất nên sẽ không áp dụng Điều 50 Luật đất đai để xin cấp GCN QSD đất là loại đất ở. Điều 50 Luật đất đai chỉ quy định các trường hợp sử dụng đất được cấp GCN lần đầu. Gia đình bạn là phải thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định.
    2. Bạn cần có đơn hỏi Phòng tài nguyên và Môi trường về nội dung ghi loại đất trong GCN QSD đất của gia đình bạn: đất "VƯỜN TRONG CƯ" là loại đất gì? (có thể ở đây có sự nhầm lẫn, sai sót). Gia đình bạn được cấp GCN năm 1999 nên áp dụng Luật đất đai năm 1993, theo đó, Điều 11 Luật đất đai quy định về các loại đất, trong đó không có loại đất nào là đất VƯỜN TRONG CƯ. Bạn có thể tham khảo Điều 11 như sau:

    "Điều 11

    Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất được phân thành các loại sau đây:

    1- Đất nông nghiệp;

    2- Đất lâm nghiệp;

    3- Đất khu dân cư nông thôn;

    4- Đất đô thị;

    5- Đất chuyên dùng;

    6- Đất chưa sử dụng."

    3. Bạn nói là gia đình bạn đã "đã nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ theo giá đất ở" là thế nào? Có phải là Nhà nước đã xác định thửa đất đó là đất ở khi gia đình bạn nhận chuyển nhượng.


    4. Nếu thửa đất của gia đình bạn chỉ có một phần là đất ở, hoặc không có đất ở mà toàn bộ là đất nông nghiệp (đất vườn) thì gia đình bạn cần thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất sang loại đất ở theo quy định của Luật đất đai 2003, Nghị định181/2004/NĐ-CP, Nghị định 198, Thông tư92/2011/TT-BTC...

             Tóm lại: Việc đầu tiên gia đình bạn cần làm là xác định lại loại đất của gia đình bạn ghi trong GCN QSD đất năm 1999 là loại đất gì? rồi mới tính tiếp vì không có loại đất nào là VƯỜN TRONG CƯ! Rất có thể thửa đất của gia đình bạn đã được xác định là đất ở. Bạn có thể tham khảo quy định pháp luật sau đây của Luật đất đai năm 2003 để xác định hạn mức công nhận là đất ở:

    "Điều 87. Xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao

    1. Đất vườn, ao được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư.

    2. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này thì diện tích đất vườn, ao đó được xác định là đất ở.

    3. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà trong giấy tờ đó ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất có vườn, ao được xác định theo giấy tờ đó.

    4. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất có vườn, ao được xác định như sau:

    a) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở theo số lượng nhân khẩu trong hộ gia đình;

    b) Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở tại địa phương;

    c) Trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất.

    5. Đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này thì diện tích đất ở có vườn, ao được xác định theo mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật này."


  • Xem thêm     

    19/11/2011, 06:14:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

           "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

      Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

      Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."


    1.          Như vậy chỉ có những trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hai theo quy định tại Điều 105 BLTTHS thì việc rút đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại mới làm cho vụ án được "dừng lại".


    1.          Trong trường hợp của bạn, Công an khởi tố vụ án không phải là theo YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI theo quy định tại Điều 105 BLTTHS mà là do vụ án có dấu hiệu tội phạm và đơn yêu cầu khởi tố của bạn chỉ là một thông tin về tội phạm chứ không phải là căn cứ khởi tố vụ án. Do vậy việc có đơn bãi nại của bạn hay không "không nhiều ý nghĩa"! Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS, không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 105 BLTTHS.


    1.          Tuy vậy, bạn vẫn có thể có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bạn đối với bị cáo có thể được xem như một tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Nội dung đơn chỉ cần bạn nêu lý do và yêu cầu xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là được. Đơn có thể gửi cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án (cơ quan đang thụ lý vụ án).


  • Xem thêm     

    19/11/2011, 07:10:50 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Vấn đề bạn hỏi được quy định tại Điều 105 luật đất đai năm 2003, cụ thể như sau:

    "Điều 105. Quyền chung của người sử dụng đất

    Người sử dụng đất có các quyền chung sau đây:

    1. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất;

    3. Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp;

    4. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp;

    5. Được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình;

    6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai."

              Ngoài ra, Bộ luật dân sự cũng có những quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây của Bộ luật dân sự năm 2005:

    "Ðiều 255. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật.

    Ðiều 256. Quyền đòi lại tài sản

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Ðiều 257 và Ðiều 258 của Bộ luật này."

            Như vậy, nếu có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào xâm phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của gia đình bạn thì gia đình bạn có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền can thiệp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bạn.

  • Xem thêm     

    19/11/2011, 06:52:04 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay), Tòa án sẽ căn cứ vào quy định của BLDS và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 về việc hướng dẫn về dân sự, hôn nhân gia đình để giải quyết. Nếu Tòa án công nhận Hợp đồng thì bắt buộc các bên phải thực hiện hợp đồng; Nếu Tòa án không công nhận hợp đồng thì chắc chắn sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu (chứ không phải chỉ có 90% vô hiệu đâu!).
           Nếu hợp đồng liên quan đến nhà ở mà giao dịch trước ngày 01/7/1991 thì Tòa án sẽ áp dụng Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 hoặc Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 để giải quyết;
           Nếu giao dịch về nhà ở được xác lập sau ngày 01/7/1991 (ngày có hiệu lực của pháp lệnh nhà ở) thì áp dụng Pháp lệnh nhà ở năm 1991, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005, Luật nhà ở năm 2005 và các văn bản hướng dẫn để giải quyết.
  • Xem thêm     

    18/11/2011, 11:22:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì, chào bạn!
  • Xem thêm     

    18/11/2011, 11:13:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì đối tượng được giao đất giãn dân (có thu tiền sử dụng đất) là cô bạn chứ không phải là bố bạn. Tuy nhiên:

    - Số tiền bỏ ra để được giao đất là của bố bạn. Nếu thông có số tiền đó thì cô bạn cũng không thể được giao đất;

    - Thực tế gia đình bạn vẫn sử dụng thửa đất đó từ khi được giao đất đến nay thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người sử dụng đất (nộp thuế);

    - Khi có tranh chấp thì gia đình bạn đứng ra giải quyết với tư cách là chủ sử dụng đất;

    - Khi gia đình bạn xây dựng nhà và được cấp GCN thì cô bạn cũng không phản đối.;

    - Gia đình bạn cũng từng thuộc diện được giao đất giãn dân nhưng do đang sử dụng thửa đất đó nên không được giao thêm đất…

    Như vậy, có nhiều căn cứ để xác định thửa đất đó thuộc về gia đình bạn nên bố bạn có nhiều cơ hội thắng kiện.

    2. Trong quá trình giải quyết vụ án, có thể cô bạn sẽ thay đổi lời khai, không công nhận là bố bạn bỏ tiền ra “mua” đất.

    Tuy nhiên, sự thật của vụ án có thể được chứng minh ở những chứng cứ khác. Do vậy, gia đình bạn cần thu thập các chứng cứ để chứng minh theo nội dung mà tôi nêu ở trên để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho gia đình mình (chứng cứ quan trọng là bố bạn bỏ tiền ra để nộp cho Nhà nước khi giao đất; Gia đình bạn sử dụng ổn định, liên tục, công khai; Thực hiện các quyền của chủ sử dụng đất; Cô bạn biết rõ và không phản đối việc sử dụng đất của gia đình bạn...).

  • Xem thêm     

    18/11/2011, 10:48:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.     Giá trị hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:

    Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình quy định điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các hợp đồng được xác lập sau ngày15/10/1993 như sau:

    “Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự năm1995. khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    ….

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.”.

    Như vậy, đối chiếu với quy định pháp luật trên thì nếu hợp đồng của gia đình bạn chưa có công chứng, chứng thực nhưng nếu bên mua đã trồng cây lâu năm, xây nhà kiên cố mà gia đình bạn không phản đối, chính quyền không xử phạt thì Tòa an sẽ căn cứ vào hướng dẫn trên của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP  để công nhận hợp đồng đó và bắt buộc các bên phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.

    2.     Loại đất chuyển nhượng: Trong hợp đồng ghi là “đất gia cư” là không thể hiện rõ ràng về loại đất chuyển nhượng là "đất ở" hay "đất vườn". Vấn đề này sẽ theo sự giải thích hợp đồng của các bên căn cứ vào tập quán địa phương.

    - Nếu “đất gia cư” mà các bên hiểu là “cả đất ở và đất vườn” thì hợp đồng có thể không bị vi phạm về nội dung.

    - Nếu các “đất gia cư” là “đất thổ cư” thì hợp đồng đó có thể vô hiệu (vô hiệu một phần hoặc toàn bộ tùy thuộc vào quan điểm từng Thẩm phán!) bởi diện tích đất chuyển nhượng lớn hơn diện tích đất ở của bên chuyển nhượng (không đủ điều kiện tách thửa).

    Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sẽ phải làm rõ nội dung này để xác định hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    3.     Quan hệ pháp luật tranh chấp: Trong vụ việc này không có dấu hiệu tội phạm, chỉ là giao dịch dân sự nên thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án theo quy định tại Điều 25 BLTTDS. Bạn không cần sợ sự hù dọa của bên kia.

    4.     Hậu quả pháp lý của việc tranh chấp:

    -         Nếu có đủ căn cứ áp dụng Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP và hợp đồng không vi phạm về điều kiện tách thửa thì Tòa án công nhận hợp đồng (1 phần là đất ở, 1 phần là đất vườn) bắt buộc các bên phải thực hiện thủ tục sang tên;

    -         Nếu Tòa án xác định hợp đông vô hiệu do không đủ điều kiện theo quy định tại mục b.3 của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên hoặc vô hiệu do đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được (diện tích đất ở nhỏ hơn diện tích chuyển nhượng) thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và căn cứ vào quy định tại Điều 137 BLDS để giải quyết hậu quả của HĐ vô hiệu: bên nào nhận của nhau cái gì thì trả lại, bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu thì phải bồi thường.

  • Xem thêm     

    18/11/2011, 10:11:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Khoản 2, Điều 29 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật…”.

    Khoản 1, Điều 14, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều này, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được xử lý theo quy định sau:

    a) Tại thời điểm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất thuộc vùng đã có quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn (gọi chung là quy hoạch) được xét duyệt mà việc sử dụng đất phù hợp với quy hoạch đó và chưa có quyết định thu hồi đất trong trường hợp đất phải thu hồi thì được cấp Giấy chứng nhận.

    c) Trường hợp đất đã được sử dụng trước thời điểm quy hoạch được xét duyệt nhưng tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất việc sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch đã được xét duyệt và cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có văn bản về chủ trương thu hồi đất theo quy định tại Điều 49 của Nghị định này thì người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại điểm a khoản này;

    d) Trường hợp đất đã được sử dụng trước thời điểm quy hoạch được xét duyệt nhưng tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất việc sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch đã được xét duyệt và đã có chủ trương thu hồi đất bằng văn bản theo quy định tại Điều 49 Nghị định này thì người sử dụng đất không được cấp Giấy chứng nhận nhưng được sử dụng đất theo hiện trạng cho đến khi có quyết định thu hồi đất;

    đ) Trường hợp quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt điều chỉnh mà toàn bộ hoặc một phần thửa đất phù hợp với quy hoạch điều chỉnh đó hoặc trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định hủy quy hoạch thì người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại điểm a khoản này”.

    Điều 49 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy định: Xác định và công bố chủ trương thu hồi đất như sau:

    1. Việc xác định chủ trương thu hồi đất (đối với trường hợp thu hồi đất theo quy hoạch) hoặc ra văn bản chấp thuận địa điểm đầu tư (đối với trường hợp thu hồi đất theo dự án) được thực hiện dựa vào các căn cứ sau đây:

    a) Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt theo quy định của pháp luật;

    b) Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong hồ sơ dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về xây dựng;

    Đối với dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thì nhu cầu sử dụng đất được xác định theo quyết định phê duyệt dự án của cơ quan có thẩm quyền; đối với dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước thì nhu cầu sử dụng đất được xác định theo văn bản thẩm định nhu cầu sử dụng đất của Sở Tài nguyên và Môi trường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 30 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; đối với dự án xây dựng cơ sở tôn giáo thì nhu cầu sử dụng đất được xác định theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

    c) Các trường hợp thu hồi đất quy định tại các điểm a, b, c, d, e, g và h khoản 1 và các điểm a, c và d khoản 2 Điều 36 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, khoản 3 Điều 2 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP, Điều 34 và Điều 35 Nghị định này.

    2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành văn bản về chủ trương thu hồi đất hoặc văn bản chấp thuận địa điểm đầu tư theo quy định tại khoản 1 Điều này.

    3. Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất bị thu hồi có trách nhiệm chỉ đạo phổ biến rộng rãi chủ trương thu hồi đất, các quy định về thu hồi đất, về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi có trách nhiệm niêm yết công khai chủ trương thu hồi đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và tại các điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi, thông báo rộng rãi trên hệ thống đài truyền thanh cấp xã (ở những nơi có hệ thống truyền thanh).

    Như vậy, nếu trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 14 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì bạn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận được quy định tại Điều 16, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    “1. Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận;

    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (nếu có);

    c) Giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 8 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là nhà ở;

    d) Giấy tờ về quyền sở hữu công trình xây dựng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Nghị định này đối với trường hợp tài sản là công trình xây dựng;

    đ) Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (nếu có);

    e) Sơ đồ nhà ở hoặc công trình xây dựng (trừ trường hợp trong giấy tờ quy định tại các điểm b, c và d khoản này đã có sơ đồ nhà ở, công trình xây dựng).”

    Theo quy định tại Điều 11, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP, bạn nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp quận, huyện. Thời gian thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ được quy định là không quá năm mươi (50) ngày làm việc đối với trường hợp cấp Giấy chứng nhận lần đầu. Thời gian này không kể thời gian công khai kết quả thẩm tra, thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính, thời gian trích đo địa chính thửa đất (theo Điều 12, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP).

    Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thửa đất đó chưa có quyết định thu hồi thì vợ chồng bạn vẫn có quyền tách thửa, chia đất cho các con. Thực tế ở một số địa phương không cho phép tách thửa đối với đất đã có quy hạch được phê duyệt bởi họ đưa ra lý do là ảnh hưởng đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Do vậy, việc bạn có thể chia đất, tách thửa hay không còn phụ thuộc vào tiến độ thực hiện dự án và thực tiễn địa phương.

  • Xem thêm     

    18/11/2011, 09:45:14 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Quyền được thừa kế theo pháp luật: Điều 676 Bộ luật dân sự quy định: hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy, theo thông tin mà bạn nêu ra thì những người có quyền hưởng di sản thừa kế của bố bạn theo pháp luật bao gồm: Bà vợ ba (nếu hôn nhân hợp pháp), 3 người con đẻ của bố bạn và bà nội bạn (tổng là 5 người). Nếu bố bạn để lại di chúc và di chúc hợp pháp thì di sản để lại cho người được chỉ định hưởng di sản theo di chúc.
              2. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế: Bố bạn mất cách đây hơn 1 năm nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế (thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm theo quy định tại Điều 645 BLDS);
              3. Di sản: Điều 634 BLDS quy định di sản bao gồm: Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung của người khác. Thông tin bạn nêu ra về di sản của bố bạn chưa rõ (gồm những gì?). Đối với mảnh đất mà bạn nói, nếu việc chuyển nhượng chưa diễn ra hoặc có việc chuyển nhượng nhưng hợp pháp thì thửa đất đó vẫn có thể được xác định là di sản của bố bạn để lại và chia cho các thừa kế.
             4. Luật đất đai quy định tranh chấp đất đai mới bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã (Điều 135 Luật đất đai) còn tranh chấp về thừa kế thì không bắt buộc hòa giải cơ sở. Tuy nhiên pháp luật khuyến khích các bên hòa giải để giải quyết tranh chấp, thậm chí khi Tòa án giải quyết thì Tòa án vẫn tổ chức hòa giải giữa các đương sự (trừ một số vụ án không bắt buộc phải hòa giải tại Tòa). Do vậy, gia đình bạn nên hòa giải để giải quyết về việc chia thừa kế của bố bạn trước khi khởi kiện.
            5.  Đối với cái chết của bố bạn: Nếu bạn thấy cái chết của bố bạn có dấu hiệu tội phạm thì bạn có quyền báo công an và cung cấp chứng cứ để công an kiểm tra, xác minh nguồn tin. Thậm chí vẫn có thể khai quật tử thi để giám định pháp y. Nếu có dấu hiệu tội phạm, công an sẽ khởi tố để xử lý theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    18/11/2011, 09:23:40 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
     Điều 136 Luật đất đai quy định:Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:

    "Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:

    1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;

    2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:

    a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;

    b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng."

             Như vậy, nếu đất nhà bạn và nhà bác bạn đã được cấp GCN QSD đất hoặc đất đã có một trong các giấy tờ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 5 Điều 50 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về Tòa án nơi có đất (Tòa án huyện giải quyết, nếu có yếu tố nước ngoài thì Tòa cấp tỉnh giải quyết sơ thẩm). Tuy nhiên, trước khi gửi đơn khởi kiện ra tòa thì các bên cần liên hệ với UBND cấp xã để hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai. Nếu hòa giải không thành thì các bên mới có đủ điều kiện khởi kiện ra Tòa án. Thủ tục giải quyết tranh chấp của Tòa án sẽ theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

            Các bên đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Vì vậy, trước và trong quá trình giải quyết tranh chấp, gia đình bạn cần chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình. Trong vụ việc của bạn, chứng cứ thể hiện ở hồ sơ địa chính, mốc giới trên thực địa, lời khai của các bên và lời khai của người làm chứng...

           Nếu cần tư vấn thêm, bạn hãy nêu câu hỏi để các luật sư tư vấn cho bạn!



  • Xem thêm     

    18/11/2011, 08:24:28 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Việc chia thừa kế căn cứ vào di chúc do người chết đó để lại. Nếu  không có di chúc, di chúc không hợp pháp, người hưởng thừa kế theo di chúc không còn thì di sản của người đó sẽ chia theo pháp luật. Những hàng thừa kế theo quy định tại Điều 676 BLDS sẽ được hưởng thừa kế: cha, mẹ (nuôi, đẻ); vợ, chồng; con (nuôi, đẻ) của người chết là hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điều 676 BLDS,
            Hàng thừa kế thứ nhất của ông nội bạn sẽ là bà nội bạn (vợ hợp pháp), các cụ đẻ ra ông nội bạn (nếu còn sống) và các con đẻ, con nuôi của ông nội bạn.
    Bạn gửi lại nội dung bằng tiếng Việt có dấu và nêu rõ nội dung, câu hỏi để Luật sư tư vấn cụ thể cho bạn.
  • Xem thêm     

    18/11/2011, 08:13:30 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Nếu cần tư vấn thêm, bạn hãy nêu câu hỏi để các luật sư tư vấn miễn phí cho bạn!
  • Xem thêm     

    18/11/2011, 01:04:27 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu bản án của Tòa án đã chia tài sản cho chị em bạn và giao cho bố bạn quản lý. Nay bố bạn quản lý tài sản đó mà không trả lại thì chị em bạn có thể khởi kiện để đòi tài sản theo nội dung Bản án đó.

  • Xem thêm     

    18/11/2011, 12:59:38 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, bổ sung ý kiến như sau:
           1. Bạn có quyền lập di chúc theo quy định tại Điều 631 BLDS.
           Tuy nhiên, đến thời điểm di chúc của bạn có hiệu lực pháp luật (bạn chết) mà pháp luật quy định về quyền sở hữu nhà ở của người VN định cư ở nước ngoài vẫn không thay đổi thì chị bạn chỉ có thể được sở hữu nhà theo di chúc của bạn nếu chị bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Luật sửa đổi điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 Luật đất đai năm 2009.
            Nếu chị bạn không thuộc trường hợp đó thì chỉ được nhận thừa kế bằng giá trị tiền (ngôi nhà đó được bán đi để giao giá trị tiền cho chị bạn).
            2. Để phòng ngừa tranh chấp thì bạn có thể thực hiện các khác, ví dụ: Lập biên bản thỏa thuận với chị bạn về việc nhờ mua nhà, đứng tên hộ...
            Bạn có thể tham khảo quy định pháp luật sau đây:

    Điều 1. Điều 126 của Luật nhà ở được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 126. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài

    1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:

    a) Người có quốc tịch Việt Nam;

    b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.

    2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.”

    Điều 2. Điều 121 của Luật đất đai được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 121. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam

    1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng quy định tại Điều 126 của Luật nhà ở có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

    2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

    a) Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật này;

    b) Chuyển quyền sử dụng đất ở khi bán, tặng cho, để thừa kế, đổi nhà ở cho tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam để ở; tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng đồng dân cư, tặng cho nhà tình nghĩa theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 của Luật này. Trường hợp tặng cho, để thừa kế cho đối tượng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đối tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở;

    c) Thế chấp nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam;

    d) Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật Việt Nam;

    đ) Cho thuê, ủy quyền quản lý nhà ở trong thời gian không sử dụng.”

    Điều 3

    1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 9 năm 2009.


  • Xem thêm     

    18/11/2011, 12:44:38 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Bạn có thể tham khảo ý kiến tư vấn của Luật sư Phạm Tiến Quyển.