Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    24/03/2012, 09:31:18 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Vấn đề bạn hỏi là một vấn đề ít gặp nhưng khó xử lý. Thực tiễn mỗi nơi xử một khác, thậm chí có những tòa án chọn giải pháp là không thụ lý đơn hoặc trả lại đơn vì không biết xử lý thế nào về mặt tư cách tố tụng. Vấn đề này luật chưa có quy định rõ ràng nên cần phải có hướng dẫn của Tòa án tối cao để thống nhất đường hướng giải quyết vụ án. Theo ý kiến cá nhân tôi nên để con hoặc cha , mẹ của người mất năng lực hành vi dân sự đại diện cho họ tham gia tố tụng với tư cách là đại diện của nguyên đơn thì sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên.
            Bạn có thể tham khảo bài viết sau đây của Hoàng Yến đăng trên http://phapluattp.vn/2011042711553861p0c1063/ai-dai-dien-nguoi-tam-than-khi-ly-hon.htm :
            " Ai đại diện người tâm thần khi ly hôn?
    Khi giải quyết án ly hôn mà một bên đương sự là người bị bệnh tâm thần, nhiều tòa gặp lúng túng trong việc xác định người giám hộ cho người bệnh. Có chuyện này bởi luật pháp chưa có quy định điều chỉnh…

    Gần đây, chị NTV đã nộp đơn ra TAND TP.HCM xin ly hôn với người chồng đang mắc bệnh tâm thần. Trong đơn, chị V. trình bày rằng vợ chồng chị kết hôn từ năm 2005. Ba năm sau, trong một vụ tai nạn giao thông, chồng chị bị thương nặng ở đầu, từ đó mất ý thức, phải nhập viện điều trị tâm thần dài hạn. Hiện nay đời sống hôn nhân của chị là không thể duy trì nên chị muốn được ly hôn để ổn định lại cuộc sống sau này...

    Tự quyết định mọi thứ, có công bằng?

    Thụ lý, TAND TP đang băn khoăn về hướng giải quyết. Có ý kiến nói tòa nên yêu cầu chị V. tiến hành làm thủ tục tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự vì bị bệnh tâm thần. Khi yêu cầu này được tòa án có thẩm quyền chấp nhận, TAND TP sẽ tiến hành giải quyết vụ ly hôn của chị. Lúc này, chị V. vừa là nguyên đơn, đồng thời cũng vừa là người đại diện theo pháp luật cho bị đơn - chồng chị.

    Ý kiến này đã vấp phải sự phản đối bởi lẽ nếu làm như vậy, chị V. sẽ được tự ý quyết định tất tần tật mọi thứ, kể cả tài sản và con chung. Điều này không đảm bảo công bằng, có khả năng gây thiệt thòi cho người chồng đang bị tâm thần, vốn có quyền lợi đối lập với chị trong vụ ly hôn. Giả sử nếu mai này người chồng khỏi bệnh thì sao?

    Cần hướng dẫn hợp lý

    Theo luật, người mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình được xem là người mất năng lực hành vi dân sự (trên cơ sở phán quyết của tòa theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan). Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người giám hộ xác lập, thực hiện. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại tòa án cũng do người giám hộ thực hiện.

    Luật cũng quy định trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ và ngược lại. Như vậy, dựa vào các quy định này, chị V. sẽ làm thủ tục yêu cầu tòa tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, chị sẽ trở thành người giám hộ đương nhiên của chồng và sẽ tham gia vụ ly hôn với cả hai tư cách nguyên đơn và đại diện bị đơn.

    Tuy nhiên, ngoài việc không đảm bảo công bằng như đã nói, luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP.HCM) còn phân tích một điểm chưa ổn khác. Theo ông, ly hôn là một trong các quyền nhân thân. Với quyền nhân thân, đương sự phải tự mình thực hiện, không ai có thể thay thế. Tức không thể để vợ chồng làm người giám hộ cho nhau trong vụ ly hôn của chính họ.

    Một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM cũng nhìn nhận thực tế đang vướng mắc ở chỗ luật bắt buộc phải có người giám hộ cho người tâm thần khi tham gia vụ án ly hôn nhưng nếu để vợ chồng làm người giám hộ cho nhau thì không ổn. Mặt khác, tòa cũng không thể cử người khác làm người giám hộ bởi luật đã quy định rõ là tòa chỉ được làm việc này khi người bệnh chưa có người giám hộ đương nhiên.

    Đây là một chuyện khá nhức đầu với các tòa. Nếu linh động để vợ hay chồng làm người giám hộ cho nhau và tiến hành giải quyết ly hôn thì không chặt chẽ về mặt pháp luật. Nhưng nếu cứ “ngâm án” mãi cũng không được vì một người xin ly hôn với người bạn đời bị bệnh tâm thần để lo cho tương lai, xét cho cùng là chính đáng và yêu cầu này không hề bị pháp luật cấm đoán.

    Vì vậy, nhiều thẩm phán đã đề nghị TAND Tối cao có hướng dẫn chính thức là gặp trường hợp này thì xác định người giám hộ như thế nào để các tòa áp dụng thống nhất.

    #e6e6fa; margin: 5px; width: 400px; border-collapse: collapse;">

    #0000cd; font-family: arial;">Cha mẹ xin ly hôn thay con cũng không được

    Một vụ ly hôn khác cũng rắc rối không kém khi một bên đương sự là người bị tâm thần. Theo hồ sơ, vợ chồng chị G. lấy nhau được hơn 10 năm, có hai con chung. Trước thì người chồng hoàn toàn bình thường nhưng sau mấy năm đi làm xa về, chị thấy anh có dấu hiệu thần kinh không ổn định. Rồi chồng chị đổ bệnh, suốt ngày tưng tưng, nói năng lảm nhảm. Các bác sĩ kết luận chồng chị bị tâm thần nặng. Gia đình đưa anh đi chữa mãi nhưng bệnh không những không hết mà còn có phần nặng thêm.

    Thương chị G. còn trẻ, gia đình chồng đã vận động chị ly hôn để tìm hạnh phúc mới. Chị G. không chịu. Thấy con dâu khổ, không đành lòng, cha mẹ chồng chị đã làm đơn xin ly hôn giùm cho con trai. Đơn này sau đó đã bị tòa trả lại với lý do phải đích thân chồng hay vợ đứng đơn khởi kiện và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai thay mặt mình được.

    #0000cd; font-family: arial;">Cho cha mẹ làm người giám hộ

    Pháp luật dân sự cần sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng quy định về người giám hộ trong các vụ án ly hôn mà chồng hoặc vợ mất năng lực hành vi dân sự. Theo tôi, trong những trường hợp này nên quy định người giám hộ cho bên mất năng lực hành vi dân sự có thể là cha hoặc mẹ của họ.

    Luật sư TRẦN HẢI ĐỨC, Đoàn Luật sư TP.HCM

    #0000cd; font-family: arial;">Chú trọng đến tài sản chung

    Người bị bệnh tâm thần sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sau khi ly hôn. Vì vậy, cần có một số quy định áp dụng riêng cho việc phân chia tài sản chung sau ly hôn của họ. Mặt khác, trách nhiệm của người giám hộ trong việc phân chia tài sản chung của người bệnh cũng cần được bổ sung vào luật.

    Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

    #0000cd; font-family: arial;">Thiếu quy định riêng

    Trong luật pháp một số nước như Mỹ, Anh, Singapore…, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn người bị bệnh tâm thần nếu có đủ bằng chứng cho thấy khả năng nhận thức của người bệnh có thể được cải thiện trong một khoảng thời gian chấp nhận được. Chẳng hạn có xác nhận của bệnh viện là việc điều trị đang diễn tiến tốt đẹp… Còn ở ta, các quy định riêng về vấn đề này chưa có, kể cả trong luật lẫn các văn bản dưới luật.

    Một thẩm phán TAND TP.HCM

  • Xem thêm     

    24/03/2012, 08:40:38 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào ban!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
             1. Nếu cuộc hôn nhân "kép" đó chỉ được công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu phát sinh trước ngày 13/01/1960 (nếu ở Miền Bắc) hoặc trước ngày 25/3/1977 (nếu ở Miền Nam), đồng thời thuộc trường hợp quy định tại mục 3, Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 và Thông tư số 01/2001/TT-BTP:
              "Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;"

            "Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    - Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

    - Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

    - Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

    - Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

    Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình."

           Nếu bà vợ hai của ông bạn đủ điều kiện nêu trên (thời gian chung sống, hình thức chung sống) thì mới được coi là vợ hợp pháp của ông bạn và mới được chia 1/3 trong khối tài sản chung vợ chồng đó. Nếu cuộc hôn nhân của ông bạn với bà bạn không hợp pháp mà chỉ hợp pháp với bà hai thì tài sản của ông bạn chỉ chung với bà vợ hai.
           2. Điều 15, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Vợ chồng đều có quyền sở hữu, sử dụng và hưởng thụ ngang nhau về tài sản có trước và sau khi cưới" (tất cả tài sản của vợ chồng đều là tài sản chung, không có tài sản riêng). Do vậy, nhà đất đó sẽ không phải là tài sản riêng của ông bạn nếu hôn nhân của ông bạn với bà hai là hợp pháp và xác lập trước thời điểm 13/01/1960 hoặc 25/3/1977 như đã nêu ở trên.
  • Xem thêm     

    23/03/2012, 12:51:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Đức Tín, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Nếu thửa đất "khai hoang" trước năm 1993 mà bạn để bố vợ bạn đứng tên giùm thì về mặt pháp lý bạn không thể đòi lại thửa đất đó nếu có biến cố xảy ra, do vậy bạn có thể phòng ngừa rủi ro bằng một trong các biện pháp sau:
    - Yêu cầu bố vợ của bạn ủy quyền cho bên thứ ba do bạn chỉ định để xin cấp GCN QSD đất và tặng cho bạn thửa đất đó cùng toàn bộ tài sản trên đất.
    - Yêu cầu bố vợ bạn lập di chúc để định đoạt toàn bộ thửa đất và tài sản trên đất cho bạn, đồng thời bạn giữ tất cả các giấy tờ về QSD đất;
    - Yêu cầu bố vợ bạn lập văn bản ủy quyền cho vợ chồng bạn quản lý, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất đó;
    - Lập biên bản thỏa thuận của gia đình để chuyển toàn bộ quyền sử dụng đất đó cho vợ chồng bạn. Căn cứ vào biên bản thỏa thuận đó, vợ chồng bạn kê khai xin cấp GCN QSD đất.
            2. Bạn lưu ý là vợ chồng bạn phải chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu chứng minh là vợ chồng bạn thực tế khai hoang và sử dụng thửa đất đó ổn định liên tục, không có tranh chấp, đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
             3. Bạn lưu ý là: Việc cấp GCN QSD đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 luật đất đai thường cấp cho Hộ gia đình. Vì vậy, việc định đoạt tài sản phải có ý kiến của cả hộ mới hợp pháp.
  • Xem thêm     

    23/03/2012, 11:25:15 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn anh! Chúc anh mau khỏe!
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 10:10:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Đó là thỏa thuận dân sự nên không bắt buộc phải đến công an. Tuy nhiên, các bên có thể đến công an để nhờ làm chứng cho minh bạch.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 09:17:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Quy định pháp luật đã rõ ràng. Nếu bạn hết tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự mà vẫn bị gọi khám tuyển thì có thể gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã để được xem xét. Nếu không thấy thỏa đáng thì bạn gửi đơn lên cấp trên trực tiếp để được xem xét.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 09:12:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
            Theo thông tin bạn nêu thì ông An chỉ có thể khởi kiện tranh hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì mới có thể đòi được số tiền của mình. Theo quy định của BLTTDS thì các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do vậy, nếu ông An không cung cấp được chứng cứ chứng minh có khoản vay nợ thì tòa án sẽ bác yêu cầu khởi kiện. Đối với hợp đồng chuyển nhượng viết tay thì không có hiệu lực pháp luật Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137 BLDS. Vụ việc đó rất phức tạp, có nhiều quan hệ pháp luật, liên quan đến nhiều người và nhiều khối tài sản do vậy ông An nên mời luật sư tham gia thì mới có cơ hội đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 08:36:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
           1. Về nguyên tắc tài sản chung vợ chồng mà một người tự ý định đoạt mà không có ý kiến của người kia (đồng sở hữu) thì giao dịch đó vô hiệu 1/2 hoặc vô hiệu toàn bộ. Người không tham gia vào việc mua bán đó có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng đó để đòi lại tài sản.
          2. Tuy nhiên thực tiễn xét xử của Tòa án cho thấy: Nếu chỉ có vợ hoặc chồng ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ tài sản  (nhà đất) nhưng người kia biết việc đó mà không phản đối và có tham gia vào việc chuyển nhượng đó (nhận tiền, sử dụng tiền, giao đất giao nhà...) thì Tòa án vẫn có thể công nhận hợp đồng chuyển nhượng đó. Thực tế có việc mua bán, các bên đều biết và không phản đối, trải qua một khoảng thời gian dài mới có tranh chấp thì người mua thường có nhiều cơ hội thắng kiện hơn.
         Do vậy, mẹ bạn cần cân nhắc trước khi khởi kiện. Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để được luật sư trả lời
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 08:21:15 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Nếu hợp đồng vay nợ đã có công chứng như vậy thì khả năng thắng kiện sẽ rất cao, trừ trường hợp người vay chứng minh được là họ đã trả hết nợ. Sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế để lấy tài sản của người đó, trả nợ cho bạn. Nếu người đó thua kiện và không còn tài sản thì không còn tài sản thì khi nào người đó có tài sản thì bạn có thể tiếp tục yêu cầu thi hành án.
           Bạn cần làm đơn khởi kiện gửi kèm theo bản sao CMND, Hộ khẩu và giấy vay nợ đến Tòa án nơi người vay tiền của bạn cư trú để được giải quyết. Nhớ cung cấp thông tin, địa chỉ cụ thể của người bị kiện để tòa án xem xét.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 08:15:34 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Nếu thửa đất tranh chấp là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của các thành viên trong gia đình bạn thì tất cả các đồng sở hữu cùng ký đơn khởi kiện thì mới hợp lệ. Người khởi kiện có thể tự mình tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 08:12:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn! Chào bạn.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 02:39:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Người phải chịu trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả với bạn là kẻ phạm tội - người lấy xe của bạn chứ không phải là những người mua đi bán lại sau này. Những người mua bán sau này có trách nhiệm hoàn lại tài sản cho người phạm tội và người phạm tội có trách nhiệm với bạn. Về nguyên tắc thì người từ đủ 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với những việc do mình gây ra.
  • Xem thêm     

    22/03/2012, 02:36:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu người gây thiệt hại cho bạn đã từ đủ 18 tuổi thì họ phải bồi thường thiệt hại cho bạn chứ không phải là cha mẹ của người đó.
  • Xem thêm     

    21/03/2012, 10:07:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Người cướp xe của bạn sẽ phạm tội cướp tài sản  theo Điều 133 BLHS (nếu họ có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có những thủ đoạn khác làm cho bạn không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn). Những ngưới mua bán xe của bạn có thể là đồng phạm trong tội cướp tài sản hoặc tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có...
          Nếu những người phạm tội tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bạn thì họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu họ không trả lại tài sản cho bạn thì bản án của tòa án cũng tuyên bố họ phải có trách nhiệm trả lại tài sản cho bạn và bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành đối với khoản tiền bằng trị giá chiếc xe đó.
  • Xem thêm     

    21/03/2012, 04:27:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! Luật sư Phạm Thành Tài đã trả lời bạn, tôi bổ sung như sau:
            1. Nếu Cơ quan tố tụng chứng minh được mục đích lùi xe của lái xe là giết hại nạn nhân thì lái xe sẽ bị xử lý về hai tội là Tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS và Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như Luật sư Tài đã trích dẫn.
            2. Ngoài trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự nêu trên, chủ xe (hoặc lái xe) còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và hướng dẫn tại mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/6006 của HDDTP TAND tối cao, cụ thể như sau:
    "

                II. Xác định thiệt hại

    1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

                2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

                2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

               2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.          

                Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                 b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng. 

                - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                 2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

     

                a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                 b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại. 

                c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại… 

                d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

  • Xem thêm     

    21/03/2012, 03:36:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Bạn gái đó cần làm bản tường trình gửi công an phường và lãnh đạo nhà trường để được xem xét. Công an và nhà trường sẽ phối hợp để xử lý vụ việc đó. Nếu chưa nghiêm trọng thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính. Nếu nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự. Nếu công an vào cuộc thì họ không thể trối cãi được (không lẽ vì tư thù cá nhân mà cô gái đã vu vạ cho anh bảo vệ?!). Mọi việc sẽ được công an làm rõ để trả lại sự trong sách, tinh khiến vốn có của môi trường học đường.
  • Xem thêm     

    21/03/2012, 01:57:36 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Bạn cần xem lại bản án, quyết định ly hôn xem trong đó quy định thế nào (bạn có được mang con đi khỏi nơi ở của vợ không). Nếu bản án, quyết định ly hôn không quy định thì chỉ theo sự thỏa thuận của hai bên. Pháp luật chỉ quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn chứ không cụ thể về việc đón con đi mấy ngày!.. Nếu vợ bạn hạn chế quyền thăm nom con sau ly hôn thì bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án can thiệp để thực hiện nội dung bản án, quyết định ly hôn. Sau khi con bạn đủ 36 tháng tuổi thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con.
  • Xem thêm     

    20/03/2012, 09:21:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu đã khởi tố vụ án hình sự thì mọi thủ tục tố tụng đều phải tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc thanh tra chuyên ngành làm việc có thể liên quan đến vụ việc khác. Trong trường hợp này Cơ quan điều tra buộc phải tiến hành diều tra vụ án và ra kết luận điều tra. Cơ quan điều tra không thể ủy thác cho thanh tra chuyên ngành "điều tra" vụ án thay mình được.
  • Xem thêm     

    20/03/2012, 09:17:20 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                Vợ chồng bạn cần đến Phòng, Văn phòng công chứng để ký kết văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng. Sau khi ký kết văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng thì bạn nộp hồ sơ vào Văn phòng đăng ký QSD đất tại UBND huyện để được đăng ký theo quy định pháp luật: Hồ sơ gồm: Văn bản thỏa thuận có công chứng, Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu, Giấy chứng nhận, xác nhận tình trạng hôn nhân.
  • Xem thêm     

    20/03/2012, 09:13:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn tham khảo quy định về tạm giam và việc bảo lãnh người thân quy định tại Điều 88, Điều 92 và Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự sau đây:

    "Điều 88. Tạm giam

    1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
      a) Bị can, bị cáo phạm tội đ��c biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
      b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
    2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
      a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
      b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
      c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
    3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
    4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.

    Điều 92. Bảo lĩnh

    1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
    2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
    3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
    4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
    5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

     Điều 93. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

    1. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
    2. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
    3. Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải lập biên bản ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được đặt và giao cho bị can hoặc bị cáo một bản.
    4. Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung quỹ Nhà nước và trong trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

      Trong trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.

    5. Trình tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá trị tài sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã đặt được thực hiện theo quy định của pháp luật."