Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 11:43:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo quy định pháp luật thì UBND xã không có thẩm quyền giao đất. Do vậy vụ việc bạn nêu có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội vi phạm quy định về quản lý đất đai.... Nếu không lấy lại được tiền thì gia đình bạn có thể gửi đơn trình báo sự việc tới công an để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 11:40:54 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Những tài sản đã sang tên, đứng tên các con thì cha mẹ không đòi lại được, tài sản đó là tài sản riêng của các con. Do vậy, thửa đất đứng tên con lớn sẽ không còn là tài sản chung vợ chồng, khi ly hôn sẽ không chia..

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 11:37:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu tình tiết sự việc đúng như bạn trình bày thì chồng bạn có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 106 Bộ luật hình sự nếu tỉ lệ thương tật của người đó từ 31% trở lên. Vì vậy, trong vụ việc trên các bên nên hòa giải để giải quyết dân sự đồng thời người bị hại từ chối giám định thương tật.

    Bạn tham khảo quy định pháp luật sau đây:

    "Điều 106. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm."

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 11:20:23 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Vụ việc của bạn chỉ là quan hệ dân sự. Nếu bạn không bỏ trốn thì không bị xử lý hình sự. Nếu bạn không trả tiền thì Ngân hàng phải khởi kiện bạn đến Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

              Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì ngân hàng mới có thể chuyển hồ sơ sang có quan thi hành án để xử lý tài sản của bạn (nếu có) để thu hồi nợ. Nếu bạn không có tài sản thì ngân hàng phải chờ đến khi nào bạn có tài sản thì mới thu hồi vốn được (vì cho vay tín chấp).

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 11:00:25 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu hợp tác đơn giản thì bạn chỉ cần soạn văn bản thỏa thuận dân sự để hai bên ký và gia giấy giao nhận tiền "góp vốn".

    Nếu bạn muốn hợp tác lâu dài, tuân thủ quy định pháp luật về kinh doanh vận tài và giảm thiểu rủi ro thì bạn có thể cùng người đó thành lập công ty  (có thể là công ty vận tải), theo đó bạn sẽ trở thành thành viên của công ty. Số tiền bạn góp sẽ là tiền góp vốn và chiếc xe đó sẽ trở thành tài sản của công ty...

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 10:49:27 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Vụ việc của bạn là quan hệ pháp luật dân sự - hợp đồng vay tài sản. Nếu hai bên không thể thống nhất được với nhau về thời hạn trả nợ thì bạn có thể khởi kiện tới Tòa án nơi người vay đang cư trú để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Nếu người vay tiền của bạn bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền đó thì thẩm quyền giải quyết thuộc về công an nơi bạn giao tiền cho anh ta. Khi đó anh ta sẽ bị khởi tố, bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 03:10:18 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn có thể ký kết hợp đồng vay tiền có thế chấp bằng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật: Công chứng hợp đồng thế chấp và đăng ký thế chấp tại phòng TN&MT.

  • Xem thêm     

    17/05/2013, 02:52:45 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu chú bạn có lỗi trong vụ việc tai nạn giao thông đó gây hậu quả nghiêm trọng (tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên...) thì sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sư và phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân: Chi phí cứu chữa, tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút.., Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    "Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    A) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    B) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    C) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    D) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    Đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:59:51 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Hiện nay nhiều sinh viên đang rơi vào hoàn cảnh như bạn do lao vào kinh doanh đa cấp trá hình... Đây là loại tội phạm mới đang được Công an thành phố Hà Nội đấu tranh để xử lý theo pháp luật... Do vậy, bạn có thể trình báo toàn bộ sự việc trên với công an để được giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:56:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu việc sử dụng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 3, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP thì mới được đề bù về quyền sử dụng đất. Nếu việc sử dụng đất của gia đình bạn từ trước tới nay đều không phù hợp với quy hoạch. Trong hồ sơ quản lý đất đai của chính quyền từ trước tới nay đều ghi thể hiện là đất quy hoạch hành lang đê điều thì gia đình bạn không được bồi thường về quyền sử dụng đất. Bạn tham khảo quy định pháp luật sau đây:

    Khoản 4, Điều 50 Luật đất đai quy định:

    "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.".

    Điều 3, Nghị định 84/2007/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể như sau:

    "Điều 3. Đất sử dụng ổn định quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai

    1. Đất sử dụng ổn định quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai là đất đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:

    a) Đất đã được sử dụng liên tục cho một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm được cấp Giấy chứng nhận hoặc đến thời điểm có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận;

    b) Trường hợp đất đã được sử dụng liên tục quy định tại điểm a khoản này mà có sự thay đổi về người sử dụng đất và sự thay đổi đó không phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất.

    2. Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được căn cứ vào  ngày tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau:

    a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

    b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;

    c) Quyết định hoặc bản án của Toà án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;

    d) Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hoà giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi có đất;

    đ) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;

    e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh có ghi địa chỉ của nhà ở liên quan đến thửa đất;

    g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;

    h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan (không cần có chứng nhận của cơ quan, tổ chức); 

    i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;

    k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

    3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

    4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.".

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:40:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu gia đình bạn bị thu hồi đất thì sẽ có quyết định bồi thường bằng quyền sử dụng đất hoặc quyết định tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Quyết định đó có trong thời kỳ hôn nhân và xuất phát từ việc thu hồi đất là tài sản chung vợ chồng thì đó là tài sản chung vợ chồng và việc định đoạt phải có sự đồng thuận của vợ và chồng.

    Nếu chồng bạn tự ý chuyển đổi thửa đất đó cho người khác thì việc chuyển đối đỏ là trái pháp luật. Bạn có thể yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng đổi quyền sử dụng đất đó.

    Sau khi bạn có đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì trong thời hạn 5 ngày, Tòa án phải thụ lý để giải quyết. Bạn tham khảo một số quy định sau đây của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thụ lý vụ án dân sự:

    Điều 164. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện

    1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.

    2. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:

    a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;

    b) Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;

    c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;

    d) Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;

    đ) Tên, địa chỉ của người bị kiện;

    e) Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;

    g) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

    h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có.

    3. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.

    Trường hợp người khởi kiện không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì phải có người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng.

    Điều 165. Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện

    Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

    Điều 166. Gửi đơn khởi kiện đến Toà án

    1. Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:

    a) Nộp trực tiếp tại Toà án;

    b) Gửi đến Toà án qua bưu điện.

    2. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.

     

    Điều 167. Thủ tục nhận đơn khởi kiện

    Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:

    1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;

    2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;

    3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

    “Điều 168. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

    1. Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

    a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

    b) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;

    c) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng;

    d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;

    đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

    2. Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.

    3. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:

    a) Người khởi kiện có quyền khởi kiện hoặc đã đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

    b) Xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;

    c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;

    d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    4. Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành khoản 1 và khoản 3 Điều này.”

    25. Điều 170 được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 170. Khiếu nại, khiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện

    1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Tòa án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.

    Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.

    2. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định sau đây:

    a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;

    b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.

    3. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết.

    4. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:

    a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;

    b) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.

    Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng. Quyết định của Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp phải được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện.

    Điều 171. Thụ lý vụ án

    1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.

    2. Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.

    3. Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.

    4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.”

     

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:28:37 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào anh Thành!

    Nếu hành vi xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp chưa được chuyển mục đích là vi phạm quy định của luật đất đai và luật xây dựng nên có thể bị xử lý theo quy định về luật đất đai và luật xây dựng.

    Tuy nhiên, khi xử lý theo văn bản pháp luật nào thì phải tuận thủ trình tự, thủ tục của văn bản đó, lĩnh vực đó. Hành vi vi phạm đó chỉ được xử phạt nếu còn thời hiệu xử phạt. Nếu đã hết thởi hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Pháp lệnh lý vi phạm hành chính thì chỉ có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả chứ không được xử phạt.

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:15:55 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Vụ việc bạn nêu trên là chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn chứ không phải là chia thừa kế.

    Nếu là tài sản chung "vợ chồng" thì chỉ chia đôi cho vợ và chồng chứ không chia cho các con (trừ trường hợp tài sản thuộc loại tài sản chung của hộ gia đình).

    Nếu vợ chồng chị bạn qua đời thì mới phát sinh quyền thừa kế của các con. Nếu di sản được chia theo pháp luật thì con chung, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá thú đều có quyền thừa kế như nhau đối với di sản mà cha mẹ để lại.

    Mức án phí trong trường hợp chia tài sản chung được Pháp lệnh về án phí, lệ phí tòa án năm 2009 quy định như sau:

    Giá trị tài sản có tranh chấp

    Mức án phí

    a) Từ 4.000.000 đồng trở xuống

    200.000 đồng

    b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng

    5% giá trị tài sản có tranh chấp

    c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng

    20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng

    d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng

    36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng

    đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng

    72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng

    e) Từ trên 4.000.000.000 đồng

    112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng.

     

     

     
  • Xem thêm     

    16/05/2013, 10:05:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì ông bạn đã chia đất cho các chú và các chú đã được cấp GCN QSD đất nên phần của các chú bạn được pháp luật bảo vệ.

    Đối với phần diện tíchn mà gia đình bạn đang sử dụng nếu đã tách thành thửa riêng đứng tên bố bạn thì mới có căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất cho bố bạn. Nếu phần diện tích đất đó vẫn đứng tên ông nội bạn thì thửa đất đó là di sản của ông ban và sẽ chia đều cho các con theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự. Gia đình bạn cần xem lại hồ sơ địa chính và các giấy tờ về quyền sử dụng đất để có hướng cụ thể giải quyết vụ việc đó.

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 09:58:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu đất chưa sử dụng, không có người quản lý mà gia đình bạn khai hoang thì mới được cấp giấy chứng nhận khai hoang, nếu sử dụng ổn định thì được cấp GCN QSD đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 luật đất đai và được bồi thường về quyền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi.

    Hoặc nếu gia đình bạn sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch từ năm 1991 nhưng nay phù hợp với quy hoạch thì mới được công nhận quyền sử dụng đất. Ngược lại, nếu gia đình bạn sử dung đất không phù hợp với quy hoạch (từ năm 1991 tới này vẫn quy hoạch treo là nghĩa địa) nay triển khai quy hoạch đó thì gia đình bạn không được bồi thường về quyền sử dụng đất. Gia đình bạn cần kiểm tra lại quy hoạch đối với thửa đất đó từ trước tới nay...

     

  • Xem thêm     

    16/05/2013, 09:22:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu vậy thì công an phải có nghĩa vụ chứng minh ma túy đó là của ai. Nếu không xác định được chủ nhân của lượng ma túy đó thì sẽ không ai bị xử lý. Nếu tìm thấy trong người, nơi ở, túi sách... còn có thể suy luận là của chủ sở hữu, còn ở quán nước người ra, kẻ vào... biết là của ai?

  • Xem thêm     

    15/05/2013, 11:34:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

                Việc làm của công an như bạn mô tả là trái pháp luật, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân... Vì vậy, bạn có thể làm đơn tố cáo những hành vi bạo hành của những người đó. Đơn của bạn có thể gửi trưởng công an cấp huyện và viện trưởng viện kiểm sát huyện để được xem xét giải quyết. 

  • Xem thêm     

    15/05/2013, 11:30:02 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Vụ việc của bạn đã có bản án của tòa án thì phải gửi đơn sang cơ quan thi hành án để bản án được thực thi. Nếu đã hết thời hạn yêu cầu thi hành án nhưng thực hiện chính sách dồn điền, đổi thửa thì gia đình bạn cũng có thể yêu cầu chính quyền địa phương chuyển phần diện tích đất đó sang phần đất của gia đình bạn thành 1 thửa đất...

  • Xem thêm     

    15/05/2013, 10:57:28 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào anh Thành!
    Nếu việc xây dựng của ông A xảy ra trước thời điểm có hiệu lực của Quyết định số 39/2005/QĐ-TTg, ngày 28/2/2005 thì áp dụng Quyết định số 39/2005/QĐ-TTg để giải quyết (mang tính hồi tố).

    Còn nếu hành vi vi phạm pháp luật xảy ra sau thời điểm có hiệu lực của Quyết định số 39/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì không áp dụng quy định của văn bản này mà áp dụng các quy định của Luật xây dựng 2004 và các văn bản hướng dẫn để giải quyết.

    Nếu một hành vi vi phạm nhiều lĩnh vực pháp luật và có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh thì có thể áp dụng một trong các văn bản đó hoặc áp dụng nhiều văn bản để xử lý nhưng phải tuân thủ nguyên tắc mỗi hành vi vi phạm thì chỉ bị xử lý một lần.

    Trong vụ việc trên, nếu chính quyền áp dụng các văn bản về việc xử lý vi phạm hành chính, hồ sơ cũ để tước quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì không mang tính thuyết phục, dễ phát sinh tranh chấp khiếu kiện. Chỉ cần áp dụng quy định của Nghị định 69/2009/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải quyết. Nếu các hộ gia đình đó không đủ điều kiện được bồi thường về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất thì không cho họ bồi thường và giải thích cho người dân biết... Đối chiếu với điều kiện bồi thường, hỗ trợ mà người dân không đủ điều kiện bồi thường thì thôi...! Người dân ý kiến gì được nữa?!

  • Xem thêm     

    15/05/2013, 10:37:56 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu chỉ có người điều khiển phương tiện giao thông vi phạm, người ngồi sau không vi phạm thì cảnh sát giao thông chỉ được xử lý người vi phạm. Nếu người ngồi sau có vi phạm (không đội mũ bảo hiểm..) thì mới có thể bị xử lý, thu giữ giấy tờ làm căn cứ để xử lý hành vi vi phạm. Việc thu giữ giấy tờ phải tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ và nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông.