Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<567891011>»
  • Xem thêm     

    26/11/2020, 03:27:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo Khoản 3 Điều 18 Luật giao thông đường bộ 2008 quy định về việc dừng, đỗ xe trên đường bộ phải thực hiện các quy định sau:

    “a) Có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết;

    b) Cho xe dừng, đỗ ở nơi có lề đường rộng hoặc khu đất ở bên ngoài phần đường xe chạy; trường hợp lề đường hẹp hoặc không có lề đường thì phải cho xe dừng, đỗ sát mép đường phía bên phải theo chiều đi của mình;

    c) Trường hợp trên đường đã xây dựng nơi dừng xe, đỗ xe hoặc quy định các điểm dừng xe, đỗ xe thì phải dừng, đỗ xe tại các vị trí đó;

    d) Sau khi đỗ xe, chỉ được rời khỏi xe khi đã thực hiện các biện pháp an toàn; nếu xe đỗ chiếm một phần đường xe chạy phải đặt ngay biển báo hiệu nguy hiểm ở phía trước và phía sau xe để người điều khiển phương tiện khác biết;

    đ) Không mở cửa xe, để cửa xe mở hoặc bước xuống xe khi chưa bảo đảm điều kiện an toàn;

    e) Khi dừng xe, không được tắt máy và không được rời khỏi vị trí lái;

    g) Xe đỗ trên đoạn đường dốc phải được chèn bánh”

    Có thể thấy người lái xe đã mắc lỗi về vị trí dừng, đỗ xe theo quy định phải dừng ở nơi có lề đường rộng, khu đất bên ngoài phần đường hoặc sát mép đường bên phải do đó việc dừng đỗ xe ở vị trí giữa đường đã sai với quy tắc trên và với hành vi này người lái xe sẽ bị xử phạt hành chính tại Điểm h hoặc Điểm g Khoản 2 Điều 5 Nghị định 100/NĐ-CP tùy thuộc vào đoạn đường mà ba bạn dừng xe là đoạn đường trong đô thị hay đoạn đường ngoài đô thị và mức phạt của cả hai lỗi là từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng.

    Ngoài ra còn áp dụng Điểm c Khoản 11 Điều này vì đã dẫn đến tai nạn giao thông sẽ bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe 02 đến 04 tháng.

    Do hành vi của người lái xe đã vi phạm nguyên tắc giao thông dẫn đến thiệt hại xảy ra nên người lái xe sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người đâm vào xe của mình căn cứ theo Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại “ Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”.

    Trong trường hợp trên, ô tô đỗ mà không có tín hiệu cảnh báo và xe máy đâm vào xe ô tô thì lỗi này được xác định do cả hai bên.

    Như vậy, một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả trong vụ tai nạn nêu trên là do người lái xe đỗ xe không đúng của pháp luật. Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 thì: “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    …”.

    Do vậy, hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ do đỗ xe không có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết, vi phạm quy định về dừng, đỗ gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của người khác như đã nêu trên của người lái xe đã đủ các yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 của BLHS năm 2015.

  • Xem thêm     

    26/11/2020, 09:50:56 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại khoản 1 Điều 42 Luật An toàn, vệ sinh lao động quy định cơ quan BHXH trả phí khám giám định thương tật, bệnh tật do TNLĐ, BNN đối với các trường hợp đủ điều kiện hưởng theo quy định tại Điều 45 và Điều 46 của Luật này. Tại điểm đ khoản 4 Điều 7 Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH ngày 20/9/2017 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về thành phần hồ sơ đối với người bị TNLĐ, BNN sau khi giám định tổng hợp do tiếp tục bị TNLĐ hoặc BNN là Biên bản giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa.

    Theo thông tin bạn cung cấp thì người lao động đi giám định vì suy giảm khả năng lao động chứ không phải khám về bệnh nghề nghiệp để hưởng trợ cấp nên người lao động đó không thuộc đối tượng được thanh toán phí giám định y khoa.

  • Xem thêm     

    25/11/2020, 02:54:32 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 116/2010/NĐ-CP cán bộ, công chức, viên chức,... làm việc theo chế độ hợp đồng lao động khi đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì hưởng trợ cấp lần đầu như sau:

    "Điều 6. Trợ cấp lần đầu và trợ cấp chuyển vùng

    Đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên đối với nữ và từ 5 năm trở lên đối với nam được hưởng trợ cấp như sau:

    1. Trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương tối thiểu chung;

    2. Trường hợp có gia đình chuyển đi theo thì ngoài trợ cấp lần đầu, còn được trợ cấp tiền tàu xe, cước hành lý cho các thành viên trong gia đình cùng đi và hưởng trợ cấp chuyển vùng bằng 12 tháng lương tối thiểu chung cho hộ gia đình;

    3. Chỉ thực hiện một lần mức trợ cấp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trong cả thời gian công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn."

    Đối chiếu với trường hợp của bạn hỏi, người đó đã chuyển đến công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn 6 năm kể từ tháng 2/2012 đến tháng 9/2019 nên đủ điều kiện để hưởng trợ cấp lần đầu.

    Ngoài ra, người bạn đó còn được hưởng phụ cấp thu hút theo quy định tại Điều 4 Nghị định 116/2010/NĐ-CP . Thời điểm tính hưởng phụ cấp thu hút kể từ ngày có quyết định đến công tác của cơ quan bạn.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 10:22:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại Khoản 2 Điều 25 Luật bảo hiểm xã hội 2014 có quy định về điều kiện hưởng chế độ ốm đau theo đó thì  người lao động được “nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền”

    Thứ hai: Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau

    1. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 03 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.

    2. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau của mỗi người cha hoặc người mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

    Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi con ốm đau quy định tại Điều này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

    Theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về việc phân công nhiệm vụ đối với viên chức như sau:

    Điều 25. Phân công nhiệm vụ

    1. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc người đứng đầu đơn vị sử dụng viên chức chịu trách nhiệm phân công nhiệm vụ, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức, bảo đảm các điều kiện cần thiết để viên chức thực hiện nhiệm vụ và các chế độ, chính sách đối với viên chức.

    2. Việc phân công nhiệm vụ cho viên chức phải bảo đảm phù hợp với chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý được bổ nhiệm và yêu cầu của vị trí việc làm.

    Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể trong trường hợp này là hiệu trưởng trường THCS nơi bạn đang giảng dạy có trách nhiệm phân công nhiệm vụ giảng dạy và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ đối với giáo viên trong trường, nắm bắt được trình độ, năng lực của giáo viên, đồng thời việc phân công nhiệm vụ cho giáo viên phải phù hợp với chuyên môn, chức vụ quản lí, tạo điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

    Thứ hai, về định mức tiết dạy

    Điều 6. Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT ban hành chế quy định về chế độ là việc đối với giáo viên phổ thông quy định Định mức tiết dạy:

    Định mức tiết dạy là số tiết lý thuyết hoặc thực hành của mỗi giáo viên phải giảng dạy trong một tuần, cụ thể như sau:

    1. Định mức tiết dạy của giáo viên tiểu học là 23 tiết, giáo viên trung học cơ sở là 19 tiết, giáo viên trung học phổ thông là 17 tiết;

    Điều 8. Chế độ giảm định mức tiết dạy đối với giáo viên kiêm nhiệm các công việc chuyên môn

    1. Giáo viên chủ nhiệm lớp ở cấp tiểu học được giảm 3 tiết/tuần, ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông được giảm 4 tiết/tuần.

    ...

    4. Giáo viên kiêm nhiệm phụ trách công tác văn nghệ, thể dục toàn trường, phụ trách vườn trường, xưởng trường, phòng thiết bị, thư viện (nếu các công tác này chưa có cán bộ chuyên trách) được tính giảm từ 2 - 3 tiết/tuần tùy khối lượng công việc và do hiệu trưởng quyết định.

    Điều 9. Chế độ giảm định mức tiết dạy đối với giáo viên kiêm nhiệm công tác Đảng, đoàn thể và các tổ chức khác trong nhà trường

    2. Giáo viên kiêm công tác bí thư đoàn, phó bí thư đoàn cấp trường được hưởng chế độ, chính sách theo Quyết định số 61/2005/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông.

    Điều 10. Chế độ giảm định mức tiết dạy đối với các đối tượng khác

    1. Giáo viên được tuyển dụng bằng hợp đồng làm việc lần đầu được giảm 2 tiết/tuần.

    Điều 11. Quy đổi các hoạt động chuyên môn khác ra tiết dạy

    2. Ngoài nhiệm vụ giảng dạy chính ở trên lớp, giáo viên còn phải thực hiện những hoạt động chuyên môn và các hoạt động khác theo sự phân công của Hiệu trưởng. Việc quy đổi những hoạt động này ra tiết dạy để tính số giờ giảng dạy cho từng giáo viên được thực hiện như sau:

    d) Hiệu trưởng căn cứ tình hình thực tế quy định việc quy đổi tiết dạy đối với các công việc chuyên môn khác sau khi có ý kiến đồng ý của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.

    Như vậy, bạn cần lưu ý hiệu trưởng sẽ có quyền quản lý chung trong các hoạt động của nhà trường bao gồm cả phân công dạy thay và căn cứ vào các căn cứ ở trên.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 10:09:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại khoản 1, điều 321, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Do đó, nếu số tiền hoặc hiện vật dùng để trao đổi được thua có giá trị từ 05 triệu đồng hoặc nếu người chơi từng bị kết án về tội đánh bạc hay tội tổ chức đánh bạc thì người chơi đó vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội đánh bạc. Nếu giá trị nhỏ hơn 05 triệu đồng, với hành vi đánh bạc online và đổi ra tiền thật, bạn có thể bị xử phạt hành chính

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 10:04:22 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp này của bạn đã được trả lời nên còn thắc mắc gì thì bạn vui lòng liên hệ trực tiếp để luật sư có cơ sở thực hiện việc tư vấn cho bạn đảm bảo tính phù hợp giữa nội dung tư vấn và nội dung vụ việc cũng như các quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:52:59 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp này của bạn đã được trả lời nên bạn vui lòng liên hệ trực tiếp để luật sư có cơ sở thực hiện việc tư vấn cho bạn đảm bảo tính phù hợp giữa nội dung tư vấn và nội dung vụ việc cũng như các quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:50:45 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Trường hợp này của bạn đã được trả lời nên bạn vui lòng liên hệ trực tiếp với các luật sư để họ tư vấn cho bạn đảm bảo tính phù hợp giữa nội dung tư vấn và nội dung vụ việc cũng như các quy định của pháp luật.Vấn đề bạn xin mẫu đơn  thì có internet là tìm được, đâu có gì khó đâu.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:43:21 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo quy định tại Điều 49 Luật việc làm 2013 quy định về điều kiện hưởng chế độ thất nghiệp như sau:

    Điều 49. Điều kiện hưởng

    Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

    1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật;

    b) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

    2. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;

    3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;

    4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

    b) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

    c) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    d) Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

    đ) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

    e) Chết.

    Như vậy, trường hợp bạn đáp ứng các điều kiện nêu trên thì bạn sẽ được hưởng chế độ thất nghiệp. Với trường hợp của bạn, công ty nợ tiền bảo hiểm xã hội thì không thể làm thủ tục chốt sổ cho bạn khi bạn nghỉ việc. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến việc bạn hưởng chế độ thất nghiệp.

    Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản b Mục 2 Công văn 2266/BHXH-BT như sau:

    “b) Đối với doanh nghiệp thực sự gặp khó khăn nợ BHXH, BHYT, nếu giám đốc doanh nghiệp có văn bản gửi cơ quan BHXH cam kết trả đủ tiền nợ BHXH, BHYT và thực hiện đóng trước BHXH, BHYT đối với người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH, người lao động thôi việc để giải quyết chế độ BHXH và chốt sổ BHXH, thì giám đốc BHXH tỉnh xem xét, phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xác nhận thực trạng khó khăn của doanh nghiệp để giải quyết.”

    Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Khoản II Công văn số 212/BHXH-QLT như sau:

    “10.2. Đơn vị thật sự gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh khi người lao động nghỉ việc, đơn vị phải đóng đủ tiền BHXH, BHYT, BHTN và tiền lãi chậm đóng của người lao động đến thời điểm thôi việc, đồng thời đóng bổ sung ít nhất bằng số nợ BHYT (4,5%) và nợ quỹ BHXH ngắn hạn (4%) để đảm bảo quyền lợi cho những người lao động khác còn làm việc, trên cơ sở đó cơ quan BHXH chốt sổ cho người lao động đến thời điểm thôi việc.”.

    Do đó, căn cứ quy định trên, trường hợp công ty bạn thực sự gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì khi bạn nghỉ việc, công ty bắt buộc phải ưu tiên thanh toán đầy đủ trước các khoản nợ bảo hiểm cho bạn để tiến hành chốt sổ trước. Nếu công ty vẫn không chốt sổ và trả sổ cho bạn thì bạn có thể liên hệ với công đoàn của công ty hoặc gửi đơn khiếu nại gửi lên Phòng lao động thương binh xã hội quận (huyện) để yêu cầu giải quyết.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:37:24 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Hiện nay căn cứ theo quy định của pháp luật lao động thì sa thải là hình thức xử lý kỷ luật cao nhất, hậu quả là dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ lao động của người lao động và người sử dụng. Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về hình thức xử lý kỷ luật sa thải được áp dụng như sau:

    “Điều 125. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải

    Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong trường hợp sau đây:

    1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc;

    2. Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;

    3. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật này;

    4. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

    Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.”

    Như vậy theo bạn các công này bị khởi tố hình sự về tội đánh bạc. Tuy nhiên tình huống này việc công nhân bị bắt về tội đánh bạc phạm tội ngoài giờ làm việc và ngoài nơi làm việc. Việc xử lý người lao động về hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc..chỉ được coi là “trong phạm vi nơi làm việc” mới được coi là vi phạm và bị xử lý kỷ luật sa thải. Nếu hành vi đánh bạc này không thực hiện tại phạm vi nơi làm việc thì không áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:32:05 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 6 Thông tư 23/2015/TT-BLĐTBXH quy định về tiền lương làm thêm giờ như sau:

    1. Đối với người lao động hưởng lương theo thời gian, được trả lương làm thêm giờ khi làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường do người sử dụng lao động quy định theo Điều 104 của Bộ luật lao động và được tính như sau:

    Tiền lương làm thêm giờ = Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường  x Mức ít nhất 150% hoặc 200% hoặc 300%  x Số giờ làm thêm

    Trong đó, ngày làm việc bình thường được sửa đổi theo điểm c khoản 4 điều 14  thông tư 47/2015 như sau:

    “a) Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ chia cho số giờ thực tế làm việc trong tháng (không quá 208 giờ đối với công việc có điều kiện lao động, môi trường lao động bình thường và không kể số giờ làm thêm). Trường hợp trả lương theo ngày hoặc theo tuần, thì tiền lương giờ thực trả được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả của ngày hoặc tuần làm việc đó (trừ tiền lương làm thêm giờ, tiền lương trả thêm khi làm việc vào ban đêm) chia cho số giờ thực tế làm việc trong ngày hoặc trong tuần (không quá 8 giờ/ngàyvà không kể số giờ làm thêm).

    Tiền lương giờ thực trả nêu trên không bao gồm tiền lương làm thêm giờ, tiền lương trả thêm khi làm việc vào ban đêm, tiền lương của ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương theo quy định của Bộ luật Lao động; tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật lao động, tiền thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động”.

    Ngày chủ nhật là ngày nghỉ hàng tuần, tiền lương tăng ca sẽ là 200% cho 8 tiếng/ngày (theo thời gian lam việc ngày bình thường). Ngoài khoảng thời gian vừa nêu sẽ tính thêm tiền lương làm thêm giờ của ngày chủ nhật.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 09:07:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ Điều 27 Bộ luật hình sự 2015 quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

    1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

    ….

    Như vậy, thời hiệu để bạn trình báo với cơ quan công an về bạn bị trộm cắp mất chiếc điện thoại của bạn là 05 năm. Chỉ mới thời gian ngắn trôi qua kể từ hành vi phạm tôi trên xảy ra nên bạn vẫn có quyền trình báo với cơ quan công an để điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự tên trộm này. Theo đó, bạn viết đơn tố giác tội phạm rồi gửi cơ quan công an gần nhất; bạn cũng có thể đến trình báo  trực tiếp. Bạn không bị mất phí nhé. Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    23/11/2020, 02:41:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và tại điểm 2.13 Khoản 2 Điều 2 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 Quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế thì mỗi người chỉ được cấp một mã số bảo hiểm duy nhất. Việc bạn có hai sổ bảo hiểm xã hội, đồng nghĩa với việc bạn được cấp hai mã số bảo hiểm. Do vậy, bạn phải thực hiện việc giảm trùng hoặc gộp sổ bảo hiểm. Theo thông tin bạn cung cấp, bạn được cấp hai sổ bảo hiểm xã hội với thời gian đóng không trùng nhau nên bạn phải thực hiện thủ tục gộp sổ bảo hiểm xã hội. Cụ thể, Khoản 4 Điều 46 Quyết định 595/QĐ-BHXH có hướng dẫn như sau:

    "Một người có từ 2 sổ BHXH trở lên ghi thời gian đóng BHXH không trùng nhau thì cơ quan BHXH thu hồi tất cả các sổ BHXH, hoàn chỉnh lại cơ sở dữ liệu, in thời gian đóng, hưởng BHXH, BHTN của các sổ BHXH vào sổ mới".

    Nhưng trường hợp của bạn là bạn không đóng trùng thời gian nào cả, bạn đã ngừng đóng 1 thời gian và giờ đã đóng lại, chứ không đồng thời đóng hai sổ bảo hiểm. Theo quy định nêu trên, một người có từ 2 sổ BHXH trở lên ghi thời gian đóng BHXH không trùng nhau thì cơ quan BHXH thu hồi tất cả các sổ BHXH, sau đó hoàn chỉnh lại cơ sở dữ liệu, in thời gian đóng, hưởng BHXH, BHTN của các sổ BHXH vào sổ mới. Số sổ BHXH cấp lại là số của sổ BHXH có thời gian tham gia BHXH sớm nhất.

  • Xem thêm     

    21/11/2020, 10:53:22 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại Điều 90 Bộ luật lao động 2012 có quy định:

    1. Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.

    Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.

    Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.

    2. Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động và chất lượng công việc.

    3. Người sử dụng lao động phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau.

    Như vậy, tiền lương, phụ cấp là khoản tiền do hai bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng làm việc, công ty có trách nhiệm trả lương đầy đủ và đúng hạn cho bạn. Ở đây, số tiền trả dư này do lỗi tính toán, người làm sai sẽ bị xử lý theo nội quy quy chế làm việc, rõ ràng số tiền này nó không thuộc sở hữu của bạn nên bệnh viện truy thu lại là có căn cứ. Ở đây bạn đã không trung thực, nếu lỡ xài hết số tiền đó không có trả lại thì có thể xin đơn vị trừ dần vào lương tháng sau.

  • Xem thêm     

    21/11/2020, 10:35:24 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Theo quy định tại điều 6 Nghị định 116/2010/NĐ-CP thì khi đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên đối với nữ và từ 5 năm trở lên đối với nam thì mới được hưởng trợ cấp lần đầu và trợ cấp chuyển vùng. Tuy nhiên, bạn chuyển công tác đến vùng đặc biệt khó khăn từ tháng 1/2016 đến tháng 8/2018 thì luân chuyển công tác đến vùng không đặc biệt khó khăn. Do đó bạn không được hưởng khoản trợ cấp này.

    Tại thời điểm này Nghị định 76/2019/NĐ-CP có hiệu lực thay thế Nghị định 116/2010/NĐ-CP nên chỉ quy định cho các đối tượng khi nhận công tác lần đầu ở cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng trợ cấp nên bạn không được hưởng khoản trợ cấp này.

  • Xem thêm     

    21/11/2020, 10:02:35 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Căn cứ theo Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản như sau:

    “1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ mang thai;

    b) Lao động nữ sinh con;

    c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

    d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

    đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

    e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

    2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

    3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

    4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.”

    Bạn nghỉ việc vào 31/1/2020 và thời gian sinh con của bạn là vào 24/5/2020, do vậy trong vòng 12 tháng (từ tháng 24/6/2019 đến 24/5/2020) nếu bạn đóng đủ 06 tháng bảo hiểm xã hội thì bạn đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản.

    Trường hợp bạn nộp chậm hồ sơ, vẫn được hưởng chế độ thai sản nếu bạn giải trình bằng văn bản nêu lý do chính đáng theo quy định tại Điều 116 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 như sau:

    “Điều 116. Giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm xã hội chậm so với thời hạn quy định

    1. Trường hợp vượt quá thời hạn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 102, khoản 1 Điều 103, khoản 1 và khoản 2 Điều 110, khoản 1 và khoản 2 Điều 112 của Luật này thì phải giải trình bằng văn bản.

    2. Trường hợp nộp hồ sơ và giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm xã hội chậm so với thời hạn quy định, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp do lỗi của người lao động hoặc thân nhân của người lao động thuộc đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.”

    Vì vậy, bạn cần có văn bản giải trình về việc chậm nộp hồ sơ hưởng chế độ thai sản gửi cho cơ quan bảo hiểm xã hội xem xét giải quyết theo Điều luật ở trên.

  • Xem thêm     

    21/11/2020, 09:01:39 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    Như vậy, trường hợp học sinh lớp 12 có rủ bạn đánh một bạn khác chỉ bằng một cú đấm gây thương tích và tổn hại đến sức khỏe 13%, nếu không có các tình tiết định khung khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều luật này và mức án cao nhất là 3 năm tù. Nếu học sinh này dưới 18 tuổi thì áp dụng chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên theo Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015, mức án cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định, trường hợp này không quá 27 tháng tù giam.

    Ngoài ra, đối với trường hợp phạm tội thuộc khoản 1 Điều 134 (trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại) thì chỉ khi có yêu cầu của người bị hại mới có thể tiến hành khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Theo đó, nếu thỏa thuận được với người bị hại về vấn đề bồi thường và người bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra sẽ không tiến hành khởi tố vụ án hình sự.

    Theo khoản 2 Điều 38 Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT thì học sinh đánh nhau có thể bị: Nhắc nhở, hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp để học sinh khắc phục khuyết điểm; Khiển trách, thông báo với cha mẹ học sinh nhằm phối hợp giúp đỡ học sinh khắc phục khuyết điểm; Tạm dừng học ở trường có thời hạn và thực hiện các biện pháp giáo dục khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc áp dụng hình thức xử lý như thế nào phụ thuộc hành vi đánh bạn của học sinh kia tuy nhiên hình thức cao nhất có thể áp dụng trong trường hợp này là Tạm dừng học ở trường có thời hạn và thực hiện các biện pháp giáo dục khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

  • Xem thêm     

    20/11/2020, 09:54:15 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Về việc đòi lại tiền hoa hồng

    Điều 16 Bộ luật Lao động 2012 về hình thức hợp đồng lao động:

    “1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.”

    Như vậy, kể cả không ký hợp đồng bằng văn bản nhưng các bên vẫn có thể giao kết hợp đồng bằng lời nói. Theo đó, khi không có hợp đồng bằng văn bản, để có thể kiện yêu cầu công ty trả số tiền 31,5 triệu đồng tiền hoa hồng cho mình, bạn sẽ cần bằng chứng có thể chứng minh các vấn đề sau:

    1) Chứng minh các bên đã từng có thỏa thuận về mức hoa hồng bạn sẽ được hưởng cho mỗi công việc;

    2) Chứng minh số tiền 31,5 triệu đồng là khoản hoa hồng hợp pháp đáng ra bạn phải được nhận từ các công việc đã hoàn thành theo thỏa thuận với công ty;
    (3) Chứng minh bạn chưa từng nhận được khoản tiền trên từ phía công ty.
    Nếu có được các bằng chứng trên, bạn có thể thương lượng hòa giải với công ty để công ty chi trả tiền hoa hòng cho mình, nếu công ty không trả bạn cũng có thể kiện công ty ra tòa án cấp quận nơi công ty đặt trụ sở để yêu cầu công ty hoàn trả khoản tiền mà đúng ra bạn phải được nhận. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý là các bằng chứng đưa ra trước tòa phải là văn bản, chứng từ hợp lệ, đoạn ghi âm, hình ảnh, quay phim, clip không qua chỉnh sửa,... chẳng hạn nếu có nhiều người làm chứng cho bạn như bạn nói thì cũng cần những người này lập lời chứng thành văn bản hoặc đồng ý đứng ra làm chứng cho bạn trước tòa.

  • Xem thêm     

    20/11/2020, 09:46:42 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Tại Khoản 1 Điều 19, Điều 30, Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 có quy định: 

    “Điều 19. Nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi giao kết hợp đồng lao động

    1. Người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin cho người lao động về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người lao động yêu cầu.

    ...

    Điều 30. Thực hiện công việc theo hợp đồng lao động

    Công việc theo hợp đồng lao động phải do người lao động đã giao kết hợp đồng thực hiện. Địa điểm làm việc được thực hiện theo hợp đồng lao động hoặc theo thỏa thuận khác giữa hai bên." 

    Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

    1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

    a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

    ... 

    2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

    a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

    ... 

    3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.”

    Như vậy, theo quy định công ty phải bố trí vị trí công việc theo đúng công việc thỏa thuận trong hợp đồng. Chỉ khi gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, áp dụng biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động, nhưng không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong một năm, trừ trường hợp được sự đồng ý của người lao động.

    Trường hợp nếu bố trí không đúng công việc thì phải thỏa thuận lại và được sự đồng ý của người lao động.Trường hợp NLĐ không đồng ý mà công ty vẫn bắt làm thì có thể đơn phương chấm hợp đồng lao động hoặc yêu cầu cơ quan công đoàn/ cơ quan lao động để bảo vệ quyền lợi cho mình.

    Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2021 khi Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực, tại điều 35 người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước nếu không được bố trí theo đúng công việc tại hợp đồng lao động. 

    Theo đó, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật bạn sẽ được hưởng chế độ về trợ cấp thôi việc do công ty chi trả và trợ cấp thất nghiệp do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. 

    Thứ nhất, về việc chi trả trợ cấp thôi việc.

    Điều 48. Trợ cấp thôi việc - Bộ luật lao động 2012 quy định như sau: 

    "1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

    2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

    3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc."

    Như vậy, bạn đã làm việc tại công ty được 5 năm 7 tháng, căn cứ theo quy định trên nếu bạn không tham gia bảo hiểm thất nghiệp thì thời gian lao động tại công ty sẽ được tính hưởng trợ cấp thôi việc. Nếu bạn đã tham gia bảo hiểm thât nghiệp trong toàn bộ thời gian làm việc thì sẽ không được chi trả  trợ cấp thôi việc, thời gian này được tính để hưởng trợ cấp thất nghiệp. 

    Việc chi trả trợ cấp thôi việc (nếu có) sẽ do công ty chi trả 1 lần khi giải quyết việc chấm dứt HĐLĐ với bạn.

    Thứ hai, về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp.

    Quyền lợi về bảo hiểm thất nghiệp gồm: Trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học nghề.

  • Xem thêm     

    18/11/2020, 04:28:36 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1065 lần
    Lawyer

    Điều 29 Bộ luật Lao động 2012 có quy định về kết thúc thời gian thử việc như sau:

    “1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.

    2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.”

    Như vậy, sau khi kết thúc quá trình thử việc, người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động với người lao động. Nếu sau khi kết thúc thời gian thử việc mà người lao động không ký kết hợp đồng lao động, không thông báo cho người lao động về kết quả thử việc thì đương nhiên người lao động được nhận làm việc chính thức. Tuy nhiên, pháp luật không có quy định trường hợp đương nhiên được nhận vào làm việc sẽ tương ứng với loại hợp đồng nào. Việc xác định loại hợp đồng nào phải căn cứ vào thỏa thuận tại hợp đồng thử việc để biết trường hợp sau khi thử việc đạt yêu cầu thì hai bên sẽ ký hợp đồng lao động loại gì, dùng làm cơ sở xác định trách nhiệm thực hiện hợp đồng lao động đã được xác lập đương nhiên sau thời gian thử việc.

    Trong trường hợp này của bạn, sau thời gian thử việc mà công ty không ký hợp đồng lao động, cũng không thông báo cho bạn về kết quả thử việc, công ty vẫn giao việc cho bạn làm thì đương nhiên hợp đồng lao động giữa bạn và công ty được xác lập. Việc công ty quyết định cho bạn thôi việc mà không có căn cứ, không tuân thủ thời gian báo trước là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.

75 Trang «<567891011>»