Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Dương Văn Mai - LuatSuDuongVanMai

  • Xem thêm     

    12/04/2012, 03:35:52 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chaò vision!
    Chị gái bạn và chồng chị bạn chỉ chung sống nhưng không có đăng ký kết hôn? Bạn có biết thời điểm chị bạn chung sống là khi nào không?
    Nếu không có đăng ký kết hôn thì pháp luật sẽ không công nhận là vợ chồng việc chia tài sản và quản lý tài sản được thực hiện theo luật dân sự theo hình thức tài sản sở hữu chung, nếu tài sản đó cả hai anh chị của bạn cùng có công đóng góp tạo lập thì nhất thiết việc định đoạt phải có ý kiến của chồng chị bạn.
    Trường hợp đó là tài sản riêng của chị bạn thì chị bạn phải chứng minh đó là tài sản riêng thì mới có toàn quyền quyết định.
    Chúc bạn khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 02:49:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Với thông tin bạn nêu luật sư trả lời như sau:
    Hiện nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo Nghị định 88/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thực hiện của Bộ tài nguyên và môi trường cũng như các quyết định của địa phương nơi có đất.
    Với thông tin chỉ được cấp 120m2 bạn nên hiểu như sau: đó là hạn mức giao đất đối với một chủ sử dụng đất, trong trường hợp này gia đình bạn có thể lựa chọn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất thổ cư với diện tích là 120 m2 đồng thời phần còn lại xin cấp theo loại đất vườn hoặc gia đình cũng có thể tiến hành tách khẩu, tách hộ gia đình sau đó xin cấp.
    Trên đây là nội dung trả lời của luật sư, nếu còn vướng mắc cần hỏi bạn tiếp tục hỏi để được luật sư giải đáp.
    Chúc bạn khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 02:42:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Với thông tin bạn cung cấp luật sư trả lời như sau:
    Thửa đất gia đình bạn đang quản lý và nhận chuyển nhượng là đất nông nghiệp nên nếu có dự án thu hồi thì chỉ được bồi thường theo các quy định về đất nông nghiệp thôi, nếu là đất thổ cư rồi mà bị thu hổi toàn bộ hoặc một phần nhưng phần còn lại không đủ để ở thì mới được xét mua đất tái định cư hoặc được giao một căn hộ tái định cư.
    Chúc bạn khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 02:35:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Trong phần thông tin em nêu chưa rõ không biết là các gia đình này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  hay chưa vì vậy em tham khảo các thông tin sau nhé.
    Nếu chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính UBND các cấp;
    Trường hợp có giấy chứng nhận thì thuộc thẩm quyền của tòa.
    Nếu toàn bộ phần ngõ đi thuộc quyền sử dụng của người cho mượn ngõ đi thì việc họ đòi lại là có cơ sở, trong trường hợp này ông A không rơi vào tình trạng không có lối đi nay ông cho con gái ông ở thì ông A phải có trách nhiệm tạo ngõ đi, bớt đất làm ngõ đi cho con gái ông A chứ không thể buộc người kia cho sử dụng chung được.
    Đó là một số thông tin để em tham khảo liên quan đến câu hỏi của em.
    Chúc em khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 02:26:15 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Theo thông tin em cung cấp luật sư trả lời như sau:
    Trước hết là việc này có liên quan đến vợ con của người em khi em em trả nợ ngoài ra không có liên quan gì hết.
    Trường hợp người được viết giấy vay 2 tỷ khởi kiện em em thì giao dịch này sẽ bị coi là vô hiệu vì em của em bị ép buộc và số tiền thực tế nợ của người ta chỉ là 1 tỷ.
    Hiện tại để bảo vệ quyền lợi của em em một cách tốt nhất thì trước tiên em em cần phải đến cơ quan công an hoặc UBND xã phường trình báo về sự việc. Nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì em em sẽ bị truy tố về tội đánh bạc với số tiền 1 tỷ thì khung hình phạt như sau:

    Điều 248. Tội đánh bạc

    1. 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
    2. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tính chất chuyên nghiệp;
      b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
      c) Tái phạm nguy hiểm.
    3. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
    4. Với số tiền nêu trên em của em sẽ bị truy cứu theo khoản 2 với khung hình phạt cao nhất là 7 năm tù.
    5. Chúc em khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 11:46:35 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Trước hết cần phải căn cứ phạm vi ủy quyền của anh rể em cho chị em thì mới biết được quyền của chị em đến đâu, nếu hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền hợp pháp ủy quyền cho chị gái em được quản lý, sử dụng và cả định đoạt thì chị em mới được phép chuyển nhượng toàn bộ khối tài sản đó. Nếu không thì không thực hiện được.
    Để có thể chuyển nhượng được tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải có sự đồng ý của cả hai, trong trường hợp đã có thỏa thuận về phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì chị em có quyền định đoạt phần thuộc sở hữu của chị em.
    Vì vậy có thể hai anh chị em cùng ký hợp đồng chuyển nhượng mới hợp pháp và văn phòng công chứng mới công chứng hợp đồng đó được.
    Chúc em khỏe và thành công, nếu còn vướng mắc em tiếp tục hỏi để được các luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 11:38:38 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Về nội dung em hỏi luật sư trả lời như sau:
    Em cần phải chuẩn bị hồ sơ để thực hiện việc đính chính thông tin và liên hệ trực tiếp với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cấp quận nơi có tài sản đó.
    Thành phần hồ sơ gồm:

    a) Thành phần hồ sơ, bao gồm:

    - Đơn đề nghị đính chính nội dung thông tin ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    - Các giấy tờ liên quan đến việc đề nghị đính chính;

    - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    b) Số lượng hồ sơ: 01 (bộ)

    Trên đây là nội dung trả lời cho câu hỏi của em, nếu còn vướng mắc em có thể tiếp tục hỏi để được các luật sư trả lời.
    Chúc em sớm giải quyết được công việc!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 10:03:00 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Nội dung em hỏi luật sư trả lời như sau:
    1. Nếu người sử dụng lao động ban hành quyết định kỷ luật mà thông qua ý kiến người lao động thành lập hội đồng xử lý kỷ luật lao động... là không đảm bảo đúng quy định về việc xử lý kỷ luật lao động được quy định tại Bộ luật lao động và Nghị định số 41.
    Nếu quy trình ban hành quyết định sai thì quyết định đó không có hiệu lực.
    2. Khi người lao động khám chưa bệnh thì số ngày nghỉ do bác sỹ quyết định người sử dụng lao động không quyết định được, tuy nhiên nếu kết thúc thời gian nghỉ chữa bệnh mà người lao động vẫn muốn nghỉ nữa thì phải được sự đồng ý của người sử dụng lao động.
    Chúc em khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:53:59 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Do chưa đăng ký biến động nên phòng công chứng không công chứng hợp đồng đó là chính xác.
    Để thực hiện việc này có thể người vay tiến hành đăng ký biến động hoặc thỏa thuận riêng với ngân hàng, nếu thỏa thuận riêng với ngân hàng thì toàn bộ quyền và nghĩa vụ liên quan ngân hàng và người vay cùng phải thực hiện (lưu ý là thỏa thuận này sẽ không được phòng công chứng công chứng).
    Chúc em khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:48:52 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Luật sư lấy làm tiếc là sự việc lại xảy ra với cậu của em!
    Về nội dung em hỏi luật sư trả lời như sau:
    1. Do khối lượng chưa thể xác định chính thức nên hành vi này của cậu em có thể bị truy cứu theo khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự hoặc trong quá trình điều tra cơ quan công an chứng minh được tính tổ chức, phạm tội nhiều lần...và khối lượng heroin...thì có thể áp dụng các khoản 2, 3, 4 và của điều luật này để xử lý.Cụ thể nội dung điều luật như sau:

    Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
    2. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Phạm tội nhiều lần;
      c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
      d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
      e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;
      g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;
      h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;
      i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;
      k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
      l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;
      m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;
      n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;
      o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;
      p) Tái phạm nguy hiểm.
    3. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
      a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;
      b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;
      c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;
      d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;
      đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;
      e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
      g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;
      h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.
    4. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
      a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;
      b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;
      c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;
      d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
      đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;
      e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;
      g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;
      h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.
    5. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    2. Về thời hạn giam giữ để điều tra phải căn cứ vào việc cơ quan công an, cơ quan điều tra truy tố cậu em vào khoản nào mới có thể trả lời chính xác được tuy nhiên em có thể tham khảo quy định tại điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự để có được thông tin nhé.

    Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra

    1. 1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
    2. 2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

      Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

      a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
      b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
      c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
      d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
    3. 3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau:
      a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
      b) Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
    4. 4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
    5. 5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.

      Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

    6. 6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

      Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
      Ngoài ra kết khi kết thúc thời hạn tạm giam để điều tra kể cả gia hạn tạm giam hồ sơ vụ án sẽ được chuyển sang Viện kiểm sát cùng cấp sau đó VKS quyết định truy tố hay không truy tố hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung (nếu trả hồ sơ điều tra bổ sung thì bị can vẫn tiếp tục bị tạm giam) khi VKS truy tố thì hồ sơ tiếp tục được chuyển sang tòa án cùng cấp thời gian chuẩn bị xét xử được quy định tại Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự như sau:

      Điều 176. Thời hạn chuẩn bị xét xử

      1. 1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
      2. 2. Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
        a) Đưa vụ án ra xét xử ;
        b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
        c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

      Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.

      Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày.

      Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

      Về việc xem xét để hưởng các tình tiết giảm nhẹ

    Trong quá trình điều tra và truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ cân nhắc xem xét để quyết định mức hình phạt tương ứng, tuy nhiên nếu có luật sư tham gia bào chữa thì có thể sẽ tìm ra hoặc chứng minh được các tình tiết giảm nhẹ để xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can bị cáo. Việc mời luật sư hay không mời luật sư là quyền của bị can bị cáo và thân nhân của bị cáo không ai được ngăn cản.
    Trên đây là một số nội dung luật sư trả lời liên quan đến câu hỏi của em.
    Chúc em khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:18:56 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Luật sư trả lời em như sau:
    Về nguyên tắc để được hưởng chế độ thai sản thì người đó phải có thời gian đóng bảo hiểm xã hội liên tục từ 6 tháng trở lên về điều kiện này em đã đáp ứng tuy nhiên hiện nay em đã nghỉ việc và chưa tham gia lao động ở một đơn vị nào hơn nữa lại có những sự thay đổi về nơi ở không chỉ trong một tỉnh mà là nhiều tỉnh khác nhau vì vậy để có thể đảm bảo quyền lợi của mình và thuận tiện nhất khi thụ hưởng quyền đó em vui lòng đến phòng lao động xã hội tại địa phương nơi em muốn nhận trợ cấp thai sản để được hướng dẫn chi tiết hơn nhé./.
    Chúc em mẹ tròn con vuông!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:11:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào anh/chị!
    Theo thông tin anh/chị cung cấp luật sư trả lời như sau:
    Hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo theo quy định tại điều 139 Bộ luật Hình Sự mà nó phù hợp hơn với yếu tố cấu thành tội Lạm Dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 140 Bộ luật Hình sự. Nội dung hai điều luật này như sau:

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Có tính chất chuyên nghiệp;
      c) Tái phạm nguy hiểm;
      d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
    2. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      đ) Tái phạm nguy hiểm;
      e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm :
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
    6. Chúc anh/chị khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    12/04/2012, 09:06:51 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo thông tin bạn hỏi luật sư trả lời như sau:
    Về các quy định như bạn nêu tại hai văn bản trên là chính xác, vấn đề ở đây có thể bạn chưa biết hết các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự và bạn cũng chưa hiểu được điều luật quy định về nội dung này. Quy định này nhằm xác định rõ loại tài sản, phần tài sản để thế chấp tại ngân hàng để tách riêng quyền và nghĩa vụ của các bên đối với các loại tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà.
    Nếu trong hợp đồng tín dụng người vay vốn và ngân hàng thỏa thuận sẽ sử dụng cả nhà và đất đề thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn thì không có gì sai, trong trường hợp thỏa thuận như vậy hai bên sẽ phải tiến hành định giá cả nhà và đất./.
    Trên đây là nội dung trả lời của tôi, chúc bạn khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    11/04/2012, 11:44:31 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào johnyHai!!
    Theo quy định tại điều 49 và điều 50 Luật đất đai thì người sử dụng đất hợp pháp sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng sẽ ghi tên những người có quyền sử dụng. Trong trường hợp có nhiều người cùng được sử dụng thửa đất đó thì có thể ủy quyền cho một người đứng tên hoặc sẽ ghi tên toàn bộ những người được quyền sử dụng.
    Điều 10 Luật đất đai cũng quy định nhà nước bảo vệ quyền của người được sử dụng đất hợp pháp.
    Nếu thửa đất đó chỉ đứng tên mẹ bạn (là tài sản riêng  của mẹ bạn) thì mẹ bạn hoàn toàn có quyền tự định đoạt không ai được ngăn cản hoặc gây khó khăn, Nếu thuộc quyền tự đình đoạt của mẹ bạn thì UBND xã không có quyền ngăn cản.
    Nếu có tranh chấp về đất đai mà thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận thì thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc Tòa án, nếu đất chưa được cấp giấy chứng nhận thì thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính là UBND các cấp và phòng tài nguyên môi trường.
    Chúc bạn khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 03:43:51 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào Fanrock!
    Với nội dung thông tin nêu trên có thể khẳng định như sau:
    Việc phân chia di sản thừa kế của ông nội đã xong mặc dù chưa lập tại cơ quan có thẩm quyền về khai nhận thừa kế nhưng với tỷ lệ phần chia kỷ phần như vậy là phù  hợp quy định pháp luật, các đồng thừa kế cũng đã nhận số tiền tương đương với kỷ phần của mình.
    Thứ hai không biết khi mua nhà bà nội có chung với ai không? nếu không chung với ai và căn nhà đó chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và sở hữu cho bà nội thì việc định đoạt hoàn toàn thuộc quyền của bà nội không ai được ngăn cản hoặc gây khó khăn gì. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các đồng thừa kế kia không có quyền đòi hỏi bà nội phải chia tài sản một lần nữa.
    Trên đây là nội dung trả lời cho yêu cầu của Fanrock, nếu còn vướng mắc Fanrock có thể hỏi tiếp để được các luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 03:36:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào lotuphil!
    Với thông tin như vậy thì trước mắt cơ quan công an sẽ tạm giữ những người này để làm rõ các thông tin sự việc thời hạn tạm giữ quy định tại Điều 87 BLTTHS quy định: “1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt;  2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”. Theo quy định này thì thời gian tạm giữ nhiều nhất cũng chỉ là 9 ngày.
    Kết thúc thời hạn tạm giữ nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát sẽ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can... và tiến hành điều tra, kết thúc điều tra vụ việc mới chuyển qua giai đoạn xét xử.
    Trên đây là nội dung trả lời về yêu cầu của lotuphil nếu còn vướng mắc lotulphil có thể tiếp tục hỏi để được các luật sư trả lời./.
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 03:19:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn thành viên!
    Với thông tin thành viên cung cấp thì để thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cần phải giải quyết quan hệ pháp lý của em chồng chị, có thể yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích vì đã 10 năm nay gia đình không có tin tức hoặc tuyên yêu cầu tòa án tuyên bố em chồng chị đã chết và thực hiện việc khai nhận thừa kế sau đó mới thực hiện các thủ tục khác được.
    Chúc thành viên khỏe và thành công!
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 03:11:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Trước hết luật sư xin chia sẻ vì sự việc đáng tiếc đã xảy ra với em!
    Về nội dung em hỏi luật sư trả lời như sau:
    Trong vụ việc này 4 người kia sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự là hình phạt, án phạt được TAND quyết định bằng hình phạt tù;
    Về trách nhiệm dân sự 4 người đó sẽ phải bồi thường bằng hiện vật (trong trường hợp cơ quan công an thu giữ được chiếc xe đó) hoặc bằng tiền Tòa án có thể căn cứ vào giá trị chiêc xe đó ngoài thị trường hoặc căn cứ hồ sơ tài liệu liên quan đến việc em mua xe đó để quyết định mức độ bồi thường.
    Sau khi xét xử nếu không có kháng cáo bản án sẽ có hiệu lực cả về hình sự và trách nhiệm dân sự, nếu 4 người này không trả tài sản cho em hoặc không nhờ người khác trả tài sản cho em thì em có thể đến chi cục thi hành án để yêu cầu thi hành bản án đó (em nhớ xin tòa án cấp cho em một bản án để làm hồ sơ yêu cầu thi hành án).
    Quá trình thi hành án nếu 4 người họ không tự nguyên thi hành án thì em có quyền yêu cầu cưỡng chế thi hành án để lấy lại tài sản của mình.
    Nếu còn vướng mắc em có thể hỏi tiếp để các luật sư tư vấn./.
    Chúc em khỏe và sớm được nhận lại tài sản của mình!
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 03:09:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Trước hết luật sư xin chia sẻ vì sự việc đáng tiếc đã xảy ra với em!
    Về nội dung em hỏi luật sư trả lời như sau:
    Trong vụ việc này 4 người kia sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự là hình phạt, án phạt được TAND quyết định bằng hình phạt tù;
    Về trách nhiệm dân sự 4 người đó sẽ phải bồi thường bằng hiện vật (trong trường hợp cơ quan công an thu giữ được chiếc xe đó) hoặc bằng tiền Tòa án có thể căn cứ vào giá trị chiêc xe đó ngoài thị trường hoặc căn cứ hồ sơ tài liệu liên quan đến việc em mua xe đó để quyết định mức độ bồi thường.
    Sau khi xét xử nếu không có kháng cáo bản án sẽ có hiệu lực cả về hình sự và trách nhiệm dân sự, nếu 4 người này không trả tài sản cho em hoặc không nhờ người khác trả tài sản cho em thì em có thể đến chi cục thi hành án để yêu cầu thi hành bản án đó (em nhớ xin tòa án cấp cho em một bản án để làm hồ sơ yêu cầu thi hành án).
    Quá trình thi hành án nếu 4 người họ không tự nguyên thi hành án thì em có quyền yêu cầu cưỡng chế thi hành án để lấy lại tài sản của mình.
    Nếu còn vướng mắc em có thể hỏi tiếp để các luật sư tư vấn./.
    Chúc em khỏe và sớm được nhận lại tài sản của mình!
  • Xem thêm     

    10/04/2012, 02:58:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào vision!
    Với toàn  bộ thông tin bạn cung cấp luật sư tư vấn như sau:
    Theo giải thích của tòa án là chính xác vì đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng nếu có tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND các cấp.
    Tài sản chị bạn tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân nên đó là tài sản chung của vợ chồng theo điều 27, luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc chồng của chị bạn tự ý chuyển nhượng như vậy là vi phạm các quy định về quản lý định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
    Hiện tại để khởi kiện tuyên giao dịch đó là vô hiệu thì không còn thời hiệu nữa chỉ có thể đi theo hướng giao dịch đó trái pháp luật vì chị bạn không ký tên trong giấy chuyển nhượng nên có thể khai thác theo hướng này tuy nhiên cũng rất khó.
    Trên đây là nội dung trả lời của tôi, nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục hỏi để được các luật sư tư vấn./.
    Chúc bạn khỏe và thành công!