Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<6566676869>
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 02:29:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     Nếu bị cáo gây thiệt hại cho nạn nhân thì gia đình có thể bồi thường. Ngoài ra, phải hợp tác với cơ quan điều tra để làm sáng tỏ vụ án. Nếu có điều kiện, nên mời Ls tham gia để bào chữa cho bị cáo!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 02:27:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Gia đình nên mời Luật sư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo!
  • Xem thêm     

    12/10/2011, 08:41:26 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                    Do mẹ bạn có liên quan đến yếu tố nước ngoài nên khó được bảo lãnh tại ngoại. Tuy nhiên, nếu mẹ bạn thực sự bị bệnh, cần phải cứu chữa kịp thời thì có thể được tại ngoại để chữa bệnh và thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc Cấm xuất cảnh (bạn nên mời Luật sư để thực hiện công việc này cho mẹ bạn).

    2.                    Mẹ bạn đã bị khởi tố về tội gi? Việc chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng. Mẹ bạn có quyền bào chữa cho mình chứ không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Những lời khai của mẹ bạn và những chứng cứ mà cơ quan công an thu thập được sẽ là căn cứ xác định mẹ bạn có phạm tội hay không và phạm tội gì. Với thông tin mà bạn nêu ra thì mẹ bạn “có thể” phạm vào các tội như: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép theo Điều 275 BLHS và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể như sau:

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ  hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 275. Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép

    1. Người nào tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 91 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội nhiều lần hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm.

    Còn mẹ bạn có phạm tội hay không, phạm tội gì mà mức hình phạt cụ thể bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào quá trình điều tra và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Mức hình phạt sẽ căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, vào nhân thân bị cáo, vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 46, và Điều 48 BLTTHS.

    Nếu hành vi đưa người đi nước ngoài trước đây của mẹ bạn là phù hợp với quy định của pháp luật. Nay luật mới cấm thì hành vi đó không phạm tội.

    Nếu có điều kiện, gia đình bạn nên mời Luật sư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mẹ bạn.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    11/10/2011, 08:26:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Xin có ý kiến thêm:
    Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 không sửa Điều 133 Tội cướp tài sản của Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, Điều 133 vẫn giữ nguyên như tôi đã trích dẫn ở trên.
  • Xem thêm     

    11/10/2011, 08:06:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu công an nói với bạn là "đo vẽ hiện trường trên giấy không cần đo vẽ trên đường" thì việc làm đó là sai. Về nguyên tắc, sự việc đã diễn ra trong quá khứ, chỉ để lại những dấu tích ở hiện trường. Căn cứ vào những dấu tích ở hiện trường như: vết phanh, vết cào mặt đường, những mảnh vỡ... tư thế ngã, tư thế đổ của xe, những thương tích của người tham gia giao thông... cơ quan điều tra có thể hình dung được sự việc đã diễn ra như thế nào. Tất cả các tình tiết chứng cứ phải ăn khớp với nhau và phù hợp với lời khai của các bên, lời khai của người làm chứng thì mới xác định được sự thật của vụ án.
           Nếu không căn cứ vào những dấu tích để lại ở hiện trường mà chỉ "ngồ ở phòng mà sáng tác ra bản vẽ" thì làm sao xác định được ai đúng, ai sai?
           Trong vụ án tai nạn giao thông hiện trường dễ bị thay đổi, mất dấu vết. Do vậy hiện trường cần phải bảo vệ và việc đo vẽ hiện trường phải được thực hiện ngay sau khi tai nạn xảy ra. Quan trọng là xác định được vết tích nào là vết tích của vụ tai nạn đó (một đoạn đường mỗi ngày có hàng trăm phương tiện đi qua và đều có thể để lại dấu vết...).để xác định là có hành vi phạm tội hay không.
            Nếu việc do vẽ hiện trường có dấu hiệu sai phạm thì phải tiến hành đo vẽ lại và có thể thực nghiệm hiện trường để tìm ra sự thật của vụ án. Nếu sơ đồ hiện trường mà công an đo vẽ không phù hợp với các tình tiết, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì đó cũng không phải là chứng cứ để xác định tội phạm. Nếu bạn không thấy "yên tâm" đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì giải pháp tốt nhất là mời Luật sư tham gia để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người nhà của bạn.

           Thân ái!
  • Xem thêm     

    11/10/2011, 09:07:01 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn bạn!
    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi.
  • Xem thêm     

    11/10/2011, 06:37:21 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1.                    Do mẹ bạn có liên quan đến yếu tố nước ngoài nên khó được bảo lãnh tại ngoại. Tuy nhiên, nếu mẹ bạn thực sự bị bệnh, cần phải cứu chữa kịp thời thì có thể được tại ngoại để chữa bệnh và thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc Cấm xuất cảnh (bạn nên mời Luật sư để thực hiện công việc này cho mẹ bạn).

    2.                    Mẹ bạn đã bị khởi tố về tội gi? Việc chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng. Mẹ bạn có quyền bào chữa cho mình chứ không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Những lời khai của mẹ bạn và những chứng cứ mà cơ quan công an thu thập được sẽ là căn cứ xác định mẹ bạn có phạm tội hay không và phạm tội gì. Với thông tin mà bạn nêu ra thì mẹ bạn “có thể” phạm vào các tội như: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép theo Điều 275 BLHS và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể như sau:

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 275. Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép

    1. Người nào tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 91 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội nhiều lần hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm.

    Còn mẹ bạn có phạm tội hay không, phạm tội gì mà mức hình phạt cụ thể bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào quá trình điều tra và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Mức hình phạt sẽ căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, vào nhân thân bị cáo, vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 46, và Điều 48 BLTTHS.

    Nếu hành vi đưa người đi nước ngoài trước đây của mẹ bạn là phù hợp với quy định của pháp luật. Nay luật mới cấm thì hành vi đó không phạm tội.

    Nếu có điều kiện, gia đình bạn nên mời Luật sư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mẹ bạn.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    10/10/2011, 04:27:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Bộ luật hình sự Việt Nam không có tội ĐE DỌA CƯỚP TÀI SẢN mà chỉ có Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS. Tội phạm này cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc dùng thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công rơi vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản là cấu thành tội rồi, không cần biết là thực tế có chiếm đoạt được tàn sản hay không. Do vậy hành vi đe dọa cướp tài sản mà làm cho nạn nhân không thể chống cự được nhằm cướp tài sản nhưng chưa lấy được tài sản là cũng phạm tội này. Mức án phải chịu cho từng trường hợp cũng khác nhau căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tặng nặng trách nhiệm hình sự.
            Cụ thể Điều 133 BLHS quy định như sau:
            

    Điều 133. Tội cướp tài sản

    1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

  • Xem thêm     

    08/10/2011, 04:38:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Trước hết, muốn xác định hành vi gây tại nạn giao thông của cậu bé kia có đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS hay không thì gia đình cần cho bà cụ đi Giám định thương tật. Nếu tỷ lệ thương tật của bà cụ từ 31% trở  lên thì cậu bé có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cậu bé đó mới 15 tuổi, là trẻ Chưa thành niên nên khi áp dụng các quy định của BLHS cũng có những nét đặc thù so với người thành niên.

    2. Việc bồi thường thiệt hại của cậu bé kia do người giám hộ (bố mẹ…) thực hiện theo quy định của pháp luật theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

    3. Trẻ vị thành niên là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất và tinh thần do vậy dễ mắc sai lầm, phạm pháp. Do vậy, trong vụ việc này nếu thương tật của bà cụ không quá lớn thì hai bên nên hòa giải để bồi thường dân sự như hướng dẫn của cán bộ công an.

    4. Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây của pháp luật để đối chiếu với thực tế vụ việc đó thì sẽ biết kết quả:

    TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

    Điều 202 BLHS quy định về tội Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”.

                      Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự được hướng dẫn tại Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao như sau:

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.”.

                 BLHS quy định đặc thù đối với Người chưa thành niên phạm tội như sau:

    Điều 68. Áp dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

    Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.

    Điều 69. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội

    1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

    Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

    2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

    3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

    4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.

    5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.

    Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

    6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

    Điều 70. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

    1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:

    a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

    b) Đưa vào trường giáo dưỡng.

    2. Toà án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.

    Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Toà án giao trách nhiệm.

    3. Toà án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

    4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Toà án quyết định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Toà án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.

    Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

    Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

    1. Cảnh cáo;

    2. Phạt tiền;

    3. Cải tạo không giam giữ;

    4. Tù có thời hạn.

    Điều 72. Phạt tiền

    Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

    Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.

    Điều 73. Cải tạo không giam giữ

    Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

    Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.

    Điều 74. Tù có thời hạn

    Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:

    1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

    2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

    Điều 75. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;

    2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.

    Điều 76. Giảm mức hình phạt đã tuyên

    1. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

    2. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ (BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI  HỢP ĐỒNG DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA)

    Điều 606 Năng lực chịu trách nhiệm dân sự của cá nhân

    1. Ng­ười từ đủ mư­ời tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thư­ờng.

    2. Ngư­ời chư­a thành niên d­ưới m­ười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi th­ường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thư­ờng mà con ch­ưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi th­ường phần còn thiếu, trừ tr­ường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.

    Người từ đủ m­ười lăm tuổi đến chư­a đủ m­ười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi th­ường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

    Điều 632 BLDS bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phư­ơng tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi th­ường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho ng­ười khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi th­ường, trừ trư­ờng hợp có thoả thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, ng­ười đ­ược chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi th­ường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các tr­ường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của ng­ười bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong tr­ường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ tr­ường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong tr­ường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì ng­ười đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi th­ường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, ng­ười đ­ược chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi th­ường thiệt hại.

             Nghị Quyết03/2006/NQ-HĐTP ngày 18/7/2006 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định như sau:

    1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    (…)

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

                Đó là các quy định pháp luật liên quan đến vụ việc người thành niên gây tai nạn giao thông. Hi vong sau khi xem xong các quy định pháp luật nêu trên gia đình cụ già có thể tìm ra cách giải quyết tốt nhất, có tình có lý để giải quyết vụ việc!

  • Xem thêm     

    04/10/2011, 01:01:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Không có gì. Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi.
    Chào bạn!
  • Xem thêm     

    04/10/2011, 11:49:58 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

                Theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật tố tụng hình sự thì: "Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.".        
               Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định là nghĩa vụ chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bạn có quyền trình bày những nội dung sự thật về vụ án để Công an xem xét giải quyết còn bạn không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Vì vậy, nếu bạn không phải là người lấy tiền thì bạn không có gì phải sợ. Sau quá trình điều tra, sự thật của vụ án sẽ được làm rõ. Bạn chỉ cần tường thuật lại toàn bộ vụ việc là đủ. "Một mất mười ngờ" là không tránh khỏi.

               Theo quy định tại khoản 2, Điều 103 BLTTHS thì: "Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.".

    Do vậy, trong vụ việc trên, cơ quan công an đang tiến hành các thủ tục để "kiểm tra, xác minh nguồn tin" để quyết định có khởi tố vụ án không và khởi tố bị can với ai. Nếu bạn không phạm tội mà cơ quan tố tụng khởi tố bị can đối với bạn gây thiệt hại đến tinh thần và vật chất của bạn thì họ phải bồi thường cho bạn theo Luật bồi thường nhà nước. Do vậy, nếu bạn ngay thẳng thì bạn cứ yên tâm. Với kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm điều tra, công an sẽ sớm tìm ra thủ phạm và xóa hết nghi ngờ của mọi người.
  • Xem thêm     

    02/10/2011, 09:27:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Điều 104 BLHS quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    1. " Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
    2. a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
      b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
      c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
      d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
      đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Có tổ chức;
      g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
      h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
      i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
      k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân."
               Như vậy, dù bạn bị thương tích dưới 11% nhưng hành vi phạm tội của người đó thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1, Điều 104 BLHS thì cũng có thể bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/3/2003 của HĐTP TAND tối cao thì dùng kéo nhọn sắc đâm người cũng là công cụ, phương tiện nguy hiểm nên có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 104 BLHS.
               Tuy nhiên, khoản 1, Điều 104 là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại Điều 105 BLTTHS. Do vậy, nếu bạn có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự thì công an mới xem xét khởi tố. Nếu trước thời điểm xét xử mà bạn rút đơn thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu bạn không có đơn đề nghị khởi tố thì công an sẽ không xử lý hình sự.

               Thực tiễn thì những việc như của bạn, công an thường hòa giải để các bên giải quyết dân sự, bồi thường cho nhau. Nếu tính chất nghiêm trọng, căng thẳng thì mới khởi tố. Do vậy bạn nên cân nhắc, nếu không giải quyết được về mặt dân sự thì bạn có có để gửi đơn đề nghị công an giải quyết.
      Thân ái!
  • Xem thêm     

    28/09/2011, 12:32:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

            1. Điều 202 Bộ luật hình sự quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”.

                Điểm 4, mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn Điều 202 BLHS như sau: “Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người…”.

               Như vậy, nếu người tài xế nói trên có lỗi, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (không có giấy phép lái xe; sử dụng rượu, bia chất kích thích; điều khiển xe sai phần đường; chạy quá tốc độ; không làm chủ tốc độ…) gây thiệt hại đến tính mạng của bố bạn thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS nêu trên. Nếu tài xế có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng thì sẽ bị xử lý theo khoản 2, Điều 202 BLHS.

                Nếu tài xế: Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn thì mới là tình tiết định khung tăng nặng. Còn việc Tài xế “cố thủ” trong cabin hoặc bỏ trốn khỏi hiện trường sau đó đến công an trình báo sự việc thì không phải là trốn tránh trách nhiệm hình sự. Trong tình huống trên có thể tài xế không vi phạm điểm c, khoản 2, Điều 202 BLHS.

               2.  Theo quy định thì công an phải xác minh sự việc (chụp ảnh, đo vẽ hiện trường, lấy lời khai nhân chứng…), nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố và  có thể bắt tạm giam với bị can để điều tra. Bạn chưa được tiếp xúc với hồ sơ vụ việc thì chưa thể khẳng định được là công an đã làm đúng hay sai.

               3.  Nếu tài xế không có lỗi đối với cái chết của bố bạn thì chỉ chủ xe và tài xế chỉ phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định tại Điều 623 BLDS.

                Việc xác định mức bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 07/6/2006 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau:

                “Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.

    b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.

    c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    - Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

     - Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

    d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).

    Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

    đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.”.

                * Mức bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được quy định tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP như sau: “Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                           2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

                  Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                 b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                 - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                 2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                 a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                 b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

                Vậy bạn có thể vận dụng các quy định pháp luật trên để bảo vệ quyền lợi cho gia đình mình. Nếu thấy có dấu hiệu tội phạm mà công an không khởi tố vụ án để xử lý hình sự thì bạn có quyền gửi đơn yêu cầu khởi tố vụ án và có thể khiếu nại đối với các hành vi sai phạm của các cán bộ có thẩm quyền. Gia đình bạn cũng có thể mời Luật sư tư vấn và bảo vệ quyền lợi cho gia đình mình trong vụ việc trên.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    27/09/2011, 09:04:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 140 BLHS quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng (nay là bốn triệu đồng) đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một (nay là bốn triệu đồng) triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
    Điều luật này được sửa đổi năm 2009 như sau: "Sửa đổi cụm từ "một triệu đồng" thành cụm từ "bốn triệu đồng" tại khoản 1 và bỏ từ "trên" tại điểm d khoản 2 Điều 140".
          Như vậy, việc bạn trả tiền 6 trđ hộ Hương và yêu cầu Đạt hoàn lại số tiền đó cho bạn khi Hương trả tiền là một giao dịch dân sự (hợp đồng). Do vậy nếu sau đó Đạt không hoàn trả tiền cho bạn thì Đạt có thể phạm Tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Tuy nhiên, nếu Đạt không thừa nhận là đã nhận 6 trđ của bạn thì bạn và Cơ quan tố tụng có trách nhiệm chứng minh là Đạt đã nhận được tiền rồi dùng thủ đoạt gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của bạn thì mới có đủ căn cứ xác định là Đạt đã phạm tội theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Trong việc này bạn nến yêu cầu Đạt viết giấy nhận nợ để làm căn cứ giải quyết. Nếu Đạt cố tình không trả thì bạn có thể báo công an để Đạt phải chịu chế tài của pháp luật.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    22/09/2011, 04:35:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
       Nếu công an phường không nhận đơn của bạn thì bạn có thể yêu cầu công an Quận giải quyết hoặc gửi đơn tố giác qua đường bưu điện.
       Hành vi anh ta giật điện thoại của bạn có thể cấu thành tội Cướp giật tài sản theo Điều 136 BLHS.
       Hành vi tung video cá nhân lên mạng có thể cấu thành tội Làm nhục người khác theo Điều 121 BLHS hoặc tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy...
       Hành vi của người đó là coi thường pháp luật nên bạn cần yêu cầu công an xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Nếu không thấy được giải quyết thỏa đáng thì bạn có quyền khiếu nại đến cơ quan cấp trên. Bạn nên mời Luật sư để tư vấn trực tiếp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bạn!
    Thân ái!
     
  • Xem thêm     

    22/09/2011, 01:01:13 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Điều 2 của Hợp đồng 01/HĐCN có thể hiện là: Tổng công ty Vật tư nông nghiệp sẽ phải hoàn tất nốt các thủ tục chuyển nhượng số cổ phần đã cam kết bán cho Vinacam. Do đó, quan điểm của tôi (Ls tranh tụng) là hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa Tổng công ty Vật tư nông nghiệp và Công ty Vinacam là hợp đồng có điều kiện, không vi phạm điều cấm của pháp luật. Tại thời điểm hai bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng, tuy Tổng công ty Vật tư nông nghiệp chưa được chuyển nhượng số cổ phần bị hạn chế chuyển nhượng do là cổ đông sáng lập, nhưng hai bên đã có điều khoản riêng quy định thời điểm phải thực hiện chuyển nhượng khi được phép. Do vậy, đây là hợp đồng có điều kiện nên không vô hiệu theo quy định của pháp luật nên tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Tổng công ty Vật tư nông nghiệp phải hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng cổ phần cho Công ty Vinacam cùng toàn bộ số cổ tức tương ứng với số cổ phần trên là phù hợp với các quy định của pháp luật. Quyết định Giám đốc thẩm là không có căn cứ!
    2. Hợp đồng 1 là Hợp đồng có điều kiện nên chỉ khi điều kiện đó xảy ra (đến thời điểm được phép chuyển nhượng cổ phần) thì hợp đồng đó mới có hiệu lực. Do vậy, nếu thời điểm bạn ký HĐ 2 mà chưa đến thời điểm có hiệu lực của HDD1 thì tôi cho rằng HĐ 2 mặc nhiên là thay thế HĐ 1. Hoặc nếu trong HĐ 2 ghi rõ là thay thế HĐ 1 thì HĐ 1 mặc nhiên không còn giá trị.
    3. Theo tôi thì hành vi của bạn không có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Do vậy nếu bạn bị khởi tố thì tôi có thể bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bạn.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    21/09/2011, 10:28:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chưa đủ căn cứ để xác định chú bạn phạm tội. Nội dung bạn trình bày chỉ là quan hệ pháp luật dân sự. Nếu có tranh chấp, khiếu kiện thì thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án dân sự.
    Nếu công an cứ gọi, làm khó chú bạn thì bạn có thể nhờ Luật sư can thiệp.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    21/09/2011, 10:17:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Trong phiên tòa, bị cáo có quyền tranh luận nhưng Hội đồng xét xử có quyền cắt tranh luận của bị cáo và có quyền kết thúc phần tranh luận. Nếu thấy các tình tiết đã rõ, có căn cứ để giải quyết vụ án thì HĐXX sẽ tuyên bố kết thúc tranh luận. Vì vậy HĐXX trong vụ án của bạn không vi phạm tố tụng.

    2. Bị hại có quyền có mặt tham gia phiên tòa nhưng nếu cố tình vắng mặt thì Tòa án vẫn xét xử vắng mặt. Nếu Tòa án không triệu tập NBH hợp lệ nên bị hại không biết lịch xử để tham gia phiên tòa thì là vi phạm nghiêm trọng tố tụng và có thể hủy án sơ thẩm. Người làm chứng không nhất thiết phải tham gia phiên tòa. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án mới triệu tập người làm chứng. Bạn cũng có thể yêu cầu hoãn phiên tòa để triệu tập người làm chứng tham gia đối chất nhưng quyền quyết định có hoãn phiên tòa và có triệu tập NLC hay không thuộc về HĐXX.

    3. BLTTHS không quy định việc lấy cung phải có mặt của đại diện VKS nhưng Luật sư thì được quyền tham gia việc lấy khẩu cung. Việc bạn ký vào bản cung như vậy là tắc trách. Tuy nhiên, chứng cứ nhận tội không phải là căn cứ kết tội mà còn phụ thuộc vào các tình tiết, chứng cứ khác. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, bạn nên mời Luật sư tham gia vụ án để bào chữa cho bạn.

    4. Trong đơn kháng cáo bạn chỉ cần ghi là kháng cáo toàn bộ nội dung bản án là đủ. Bạn cũng có thể ghi rõ lý do kháng cáo và yêu cầu kháng cáo là xin giảm án hoặc đề nghị tuyên vô tội!

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    21/09/2011, 09:45:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Cảm ơn!
  • Xem thêm     

    19/09/2011, 11:53:20 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Tại sao sự việc như vậy mà đến giờ này bạn vẫn chưa báo công an?
            Việc "hắn ta" cướp điện thoại, chứng minh thư.. của người yêu bạn là cấu thành tội phạm rồi (Tội cướp tài san theo Điều 133 BLHS hoặc Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 BLHS...) và hình phạt có thể lên tới 10 năm tù (khoản 1, Điều 133). Ngoài ra anh ta còn có thể phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác theo Điều 125 BLHS, Tội đe dọa giết người (Điều 103), Tội vu khống (Điều 122), Tội làm nhục người khác (Điều 121)... Cụ thể anh ta phạm vào tội danh nào thì Công an vào cuộc thì sẽ rõ.
            Nếu bạn sợ bị trả thù thì bạn sẽ còn bị bắt nạt và hậu quả có thể đi xa hơn nữa!
    Thân ái!
69 Trang «<6566676869>