Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<36373839404142>»
  • Xem thêm     

    17/03/2013, 07:46:40 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

               Nếu người mua hàng của bạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc dùng tiền bán hàng đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng thanh toán thì mới bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 140 BLHS. Bạn có thể trình báo sự việc với công an Cao Bằng để được xem xét giải quyết.

              Nếu không có một trong các dấu hiệu tội phạm trên thì vụ việc của bạn chỉ là quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại. Bạn có thể khởi kiện tới Tòa án nơi bị đơn cư trú để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Bạn có thể yêu cầu trả tiền nợ gốc, tiền lãi suất và tiền phạt hợp đồng (nếu có thỏa thuận phạt trong hợp đồng).

  • Xem thêm     

    16/03/2013, 09:09:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Nếu bạn kia dùng hành vi gian dối để có được phiếu đó và nhờ bạn rút tiền hộ. Bạn không biết sự gian dối đó và không được chia tiền thì bạn không phạm pháp. Nếu bạn biết hành vi đó là phạm pháp nhưng vẫn thực hiện thì mới là đồng phạm. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định nếu hành vi gian đối để chiếm đoạt tài sản từ 2trđ trở lên hoặc dưới 2 trđ nhưng đã bị xử lý hành chính mà vẫn vi phạm thì mới phạm tội theo Điều 139 BLHS hoặc Điều 140 BLHS.

  • Xem thêm     

    16/03/2013, 07:12:09 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Nếu bạn chứng minh được việc tấn công bất ngờ của đối phương khiến bạn phải tự vệ thì mới có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Nếu không, bạn sẽ phạm tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Ngoài ra, bạn sẽ bị xử lý về tội tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép.

  • Xem thêm     

    15/03/2013, 08:56:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Theo thông tin bạn nêu thì mẹ vợ bạn có thể bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc quyết định hình phạt của mẹ bạn sẽ phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Với số tiền 80 trđ thì sẽ thuộc khoản 2, Điều 139 hoặc Điều 140 BLHS, hình phạt từ 2-7 năm tù. Mẹ vợ bạn có đầu thú cũng sẽ bị tạm giam để điều tra.

  • Xem thêm     

    14/03/2013, 09:10:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Bạn có thể trình báo sự việc với công an nơi Quyền nhận xe của bạn để được giải quyết. Nếu mượn xe của bạn để sử dụng nhưng lại mang đi cầm cố thì có thể bị xử lý theo Điều 140 Bộ luật hình sự. ....

  • Xem thêm     

    14/03/2013, 11:14:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Anh bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự và hình phạt được quy định như sau:

    Điều 248. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”".

           Cụ thể hình phạt của anh bạn thế nào sẽ phụ thuộc vào vai trò của anh bạn trong vụ án đó, tính chất, quy mô của vụ án đó, nhân thân của anh bạn các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của anh bạn.

                Thời hạn  tạm giam để điều tra được Bộ luật tố tụng hình sự quy định như sau:

    "Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra

    1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

    Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

    a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;

    b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;

    c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;

    d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

    3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau:

    a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    b) Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.

    5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.

    Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

    6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

    Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác."

  • Xem thêm     

    13/03/2013, 08:53:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Vụ việc của bạn có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Nếu bạn không thể tìm được đối tượng nhận tiền của bạn để giải quyết hoặc có gặp nhưng không thể giải quyết được thì chỉ còn cách là làm đơn trình báo với công an để được giải quyết. Nếu quá 2 tháng mà công an vẫn chưa có văn bản trả lời bạn về kết quả điều tra, xác minh sự việc thì bạn có thể khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan điều tra đó để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    11/03/2013, 11:08:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Với tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự thì không quy định giá trị tài sản tối thiếu bị chiếm đoạt như một số tội phạm xâm phạm quyền sở hữu khác... Chỉ cần có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản ( dù thực tế chưa lấy được tài sản hoặc tài sản chỉ trị giá 1000 đồng...) là sẽ bị xử lý về tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS (loại tội phạm cấu thành hình thức)..

             Việc xác định hai người kia phạm tội gì còn phụ thuộc vào các tình tiết, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Về mặt lý thuyết thì hành vi dùng vũ lực đó không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nên không cấu thành tội cướp tài sản. Dù số tiền chiếm đoạt trên 2trđ thì cũng không thể xử lý về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì việc chủ sở hữu tài sản không thể quản lý, bảo vệ được tài sản là do hai đối tượng trên gây nên chứ không phải do nguyên nhân khách quan...

             Nhưng trên thực tế, những hành vi trên hầu hết bị xử lý về tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS.

  • Xem thêm     

    08/03/2013, 08:56:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bạn có thể tham khảo Điều 47 và một số quy định có liên quan của Luật thi hành án dân sự.

  • Xem thêm     

    04/03/2013, 08:54:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Theo quy định của pháp luật thì trong thời hạn 02 tháng, kể từ thời điểm nhận được đơn trình báo, tố giác về tội phạm, công an phải kiểm tra, xác minh nguồn tin. Nếu có dấu hiệu hình sự thì phải khởi tố và tiến hành điều tra. Nếu chưa có căn cứ xử lý hình sự thì công an phải có văn bản trả lời người có đơn trình báo.

               Nếu công an không thực hiện đúng quy định trên thì gia đình bạn có quyền khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan công an đó hoặc gửi đơn thư cho viện kiểm sát cùng cấp để kiến nghị giải quyết.

  • Xem thêm     

    04/03/2013, 08:46:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Gia đình bạn có thể khiếu nại về việc niêm phong tài sản đó. Khi đã khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can mà bị can bỏ trốn thì mới bị truy nã.

  • Xem thêm     

    04/03/2013, 02:49:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

               Theo quy định pháp luật thì người gây tai nạn cho em bạn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của em bạn đến khi các cháu trưởng thành, mức cấp dưỡng căn cứ vào nhu cầu của đứa trẻ và khả năng của người bồi thường. Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

    "Ðiều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Ðiều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

     605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

    1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

    3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường."

  • Xem thêm     

    03/03/2013, 05:37:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Gia đình bạn cần chi phí để cứu chữa cho mẹ bạn. Sau khi mẹ bạn bình phục, ra viện thì gia đình bạn tổng hợp chi phí (kèm theo hóa đơn) để yêu cầu người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại.

    Nếu khi đó hai bên vẫn không thống nhất được việc bồi thường thì gia đình bạn có đơn yêu cầu Công an xem xét dấu hiệu hình sự và yêu cầu Tòa án xem xét buộc người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại cho mẹ bạn theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 05:49:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Nếu không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm thì Hải có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (gia đình không kháng cáo hộ Hải được). Việc kháng cáo thể hiện bằng đơn kháng cáo gửi tới Tòa án cấp sơ thẩm hoặc tòa án phúc thẩm. Sau khi kháng cáo thì vụ án sẽ chuyển tới Tòa án cấp phúc thẩm để được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm hình sự.

            Việc Hải có phạm tội hay không? Phạm tội gì? thì phải căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nếu muốn giảm nhẹ hình phạt cho Hải thì trong hồ sơ vụ án phải thể hiện được các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46 BLHS. Bạn tham khảo quy định pháp luật về căn cứ quyết định hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Bộ luật hình sự sau đây:

    "Điều 45. Căn cứ quyết định hình phạt

    Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

    Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

    e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

    k) Phạm tội do lạc hậu;

    l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    m) Người phạm tội là người già;

    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    o) Người phạm tội tự thú;

    p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

    q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

    r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

    2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật

    Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án."

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 05:01:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

            Tài sản của gia đình bạn phải được niêm phong, kê biên để bán đấu giá theo quy định pháp luật. Cả công an và Ngân hàng đều không có quyền tự ý thu giữ tài sản của gia đình bạn. Những người hôi của thì sẽ bị xử lý về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Bạn có thể tìm đến luật sư tại địa phương bạn để được giúp đỡ và hướng dẫn cách bảo vệ tài sản của gia đình mình.

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 04:54:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Với lượng ma túy trên thì bố bạn sẽ bị xử lý theo khoản 1, Điều 194 BLHS. Nếu bố bạn đã có công với nước thì có thể là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS. 

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 04:48:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

     

                 Bộ luật dân sự quy định:

                "Ðiều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại."

               Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì người đi xe máy ngược chiều gây thiệt hại tính mạng cho em bạn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho em bạn. Tuy nhiên, người đó cũng đã chết nên nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người đó sẽ chuyển sang những người thừa kế của người gây tai nạn. Gia đình em bạn có thể yêu cầu những người thừa kế của người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại theo quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

                "Ðiều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

    1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.

    3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân."

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 10:11:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

           Việc vay tiền của Ngân hàng có thế chấp tài sản là quan hệ dân sự. Nếu gia đình bạn vi phạm hợp đồng tín dụng và đồng ý để Ngân hàng phát mại tài sản thì Ngân hàng sẽ phát mại tài sản để thu hồi nợ.

           Nếu gia đình bạn không đồng ý phát mại tài sản thì Ngân hàng sẽ khởi kiện để Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

            Nếu người vay tiền gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới bị xử lý theo Điều 140 BLHS.

           Nếu công an đến gia đình bạn để lập biên bản thì chứng tỏ Ngân hàng đã có đơn tới công an trình báo mẹ bạn phạm tội (bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản). Còn nếu mẹ bạn không bỏ trốn thì không có lý do gì để công an vào cuộc và xử lý mẹ bạn về hình sự.

  • Xem thêm     

    02/03/2013, 10:04:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

          1. Vụ việc Hải bị xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS hay tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Điều 202 BLHS còn phụ thuộc vào ý chí của Hải khi thực hiện hành vi phạm tội (cố ý hay vô ý) và phụ thuộc vào hành vi cụ thể. Nếu Hải biết là có người chặn đường, để tẩu thoát hoặc tấn công người đó mà Hải đã tông xe vào người đó khiến người đó tử vong... thì xử lý về tội giết người theo Điều 93 là có căn cứ. Việc quan trọng chỉ là phân tích tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ của người phạm tội để được giảm hình phạt.

           2. Hiện nay, những vụ việc "nhờ vả" như của gia đình Hải đang xảy ra không ít, làm nảy sinh những tiêu cực xã hội và làm số người bị hại trong một vụ án "gia tăng". Nhiều người tiền mất, tật mang... khi vụ việc đổ bể rồi thì mới tìm đến luật sư (có bệnh thì cứ đến Thày mo, Thày cúng... trước, đến khi trọng bệnh rồi thì mới tìm đến bác sĩ..).

           Theo quy định pháp luật thì Luật sư là "nghề" bào chữa, họ có chuyên môn, được đào tạo để gỡ tội, minh oan cho bị can, bị cáo. Việc hành nghề của luật sư dựa trên cơ sở uy tín và danh dự nghề nghiệp. Làm việc với luật sư sẽ có Hợp đồng dịch vụ pháp lý, cam kết rõ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên (luật sư làm được gì, làm những gì, mang lại giá trị gì cho khách hàng và chi phí bao nhiêu, thời gian bao lâu...). Vậy nhưng nhiều người chưa hiểu điều đó (chưa có thói quen), cùng với sự "sách nhiễu" của một số người tiến hành tố tụng khiến người bị hại, bị can, bị cáo hay đi "cửa sau" để rồi chằng biết là mình có được "giúp đỡ" hay không và được giúp đỡ đến đâu? Đến khi mất tiền và không đạt được mong muốn thì không có căn cứ để đòi lại hoặc không dám đòi lại tiền.

          Theo thông tin bạn nêu thì người nhận tiền "chạy án" của gia đình bị cáo là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Gia đình Hải có thể làm đơn tố cáo người cầm tiền đó với cơ quan công an để được xử lý theo pháp luật và đòi lại số tiền đã mất.

  • Xem thêm     

    28/02/2013, 09:29:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

              1. Theo thông tin bạn nêu thì bà vợ và hai ông bảo vệ kia phạm tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS (kể cả trong trường hợp thương tích dưới 11%). Nếu thương tích từ 11% trở lên thì thuộc trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2, Điều 104 BLHS.

               2. Về nguyên tắc thì cơ quan điều tra phải tiến hành trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật để làm căn cứ giải quyết vụ án (trừ trường hợp người bị hại từ chối giám định). Tuy nhiên, để vụ việc được giải quyết nhanh chóng thì người bị hại nên yêu cầu công an sớm trưng cầu giám định thương tật và sớm khởi tố và xử lý các đối tượng trên theo pháp luật.

             3. Nếu có sự bao che, dung túng cho hành vi phạm tội, công an có văn bản trả lời không đủ cấu thành tội phạm thì người bị hại có quyền khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan điều tra đó và gửi tới Viện kiểm sát cùng cấp để được xem xét.

     

     

69 Trang «<36373839404142>»