Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<13141516171819>»
  • Xem thêm     

    06/12/2014, 03:36:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Với vụ việc mất trộm tài sản như vậy thì bạn có quyền gửi đơn trình báo tới công an để được xem xét giải quyết. Một mất mười ngờ... bạn có thể tình nghi một ai đó nhưng để buộc tội thì cần có chứng cứ, căn cứ. Bạn có thể cung cấp các thông tin và nói ra những suy nghĩ của mình để được xem xét giải quyết. Việc bạn đó hứa mua laptop cho bạn có thể là một tình tiết khả nghi nhưng không phải là căn cứ kết tội.

  • Xem thêm     

    06/12/2014, 03:04:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu biết rõ chiếc xe đó là tài sản do phạm pháp mà có nhưng vì tham rẻ mà vẫn chứa chấp, tiêu thụ.. thì sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều cụ thể như sau:

    "Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 

    1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm .
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Có tính chất chuyên nghiệp ;
      c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;
      d) Thu lợi bất chính lớn;
      đ) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:
      a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;
      b) Thu lợi bất chính rất lớn.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;
      b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    "

  • Xem thêm     

    06/12/2014, 02:25:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Nếu bạn đã từng phạm tội này thì phải biết mức độ xử lý sẽ như thế nào. Vì vậy, nếu vụ việc bị bắt quả tang và đã khởi tố vụ án thì tốt nhất là bạn nên đầu thú để được hưởng khoan hồng. Nếu có căn cứ xứ lý bạn về tội đánh bạc mà bạn cố tình trốn tránh thì công an cũng sẽ khởi tố và truy nã theo quy định pháp luật. Việc xác định vai trò là người đánh bạc hay người tổ chức đánh bạc sẽ được làm rõ trong vụ án.

  • Xem thêm     

    06/12/2014, 09:14:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

                1. Theo quy định tại Điều 140 BLHS quy định: "Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản."

    Điều 142 BLHS quy định: "Người nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm".

    Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì người đó mượn xe của bạn sau đó mang đi cầm cố, không trả lại tài sản cho bạn. Hành vi đó là sử dụng trái phép tài sản. Nếu giá trị tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử phạt hành chính... thì người đó sẽ bị khởi tố về tội sử dụng trái phép tài sản theo quy định tại Điều 142 BLHS.

    Nếu người đó có hành vi gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản và mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại ĐIều 142 BLHS.

    Nếu người đó chỉ mang xe của bạn đi cầm cố (sử dụng tài sản sai mục đích) nhưng không đủ điều kiện xử lý theo Điều 142 BLHS thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự, bạn có thể khởi kiện tới tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố tài sản và đòi lại chiếc xe đó.

              2. Cầm cố tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ là một trong các biện pháp đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ dân sự. Pháp luật cho phép công dân có thể thực hiện giao dịch cầm cố tài sản theo quy định pháp luật. Nếu mang tài sản của người khác đi cầm cố mà không được chủ sở hữu đồng ý thì giao dịch đó bị vô hiệu theo quy định pháp luật chứ không phải là tội phạm hình sự. Hành vi đó vì vụ lợi thì sẹ bị xử lý hành chính, nếu giá trị tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc thuộc trường hợp khác quy định tại Điều 142 BLHS thì mới có thể xử lý về tội này chứ không thể xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - trừ khi người đó bỏ trốn hoặc che giấu việc cầm cố, phủ nhận việc đã nhận tài sản để chiếm đoạt tài sản đó (gian dối).

    Vì vậy, vụ việc của bạn chưa thấy dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại ĐIều 140 BLHS (không bỏ trốn, không gian dối, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp) mà chỉ có dấu hiệu của hành vi sử dụng trái phép tài sản.

               3. Pháp luật quy định thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin về tội phạm, giải quyết đơn tố giác tội phạm là 20 ngày, nếu vụ việc phức tạp thì có thể kéo hơn nhưng không quá 2 tháng (Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự). Vì vậy, bạn có thể có đơn thư kiến nghị cơ quan điều tra sớm có kết quả xác minh và thông báo cho bạn. Nếu vụ việc không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành các tội theo quy định tại Điều 139 BLHS (dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 140 BLHS, Điều 142 BLHS thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự và bạn có thể khởi kiện để đòi tài sản theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    04/12/2014, 07:15:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu cơ quan công an xác định nạn nhân có lỗi chính, trực tiếp dẫn đến vụ việc tai nạn thì người gây tai nạn sẽ không bị khởi tố vụ án hình sự, vụ việc chỉ là quan hệ dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

    Vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, Tòa án sẽ căn cứ vào quy định tại Chương XXI bộ luật dân sự để giải quyết. Nếu nạn nhân thiệt mạng thì mức bồi thường và trách nhiệm bồi thường được quy định tại Điều 610 và Điều 623 Bộ luật dân sự, cụ thể như sau:

     Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    "Điều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại."

  • Xem thêm     

    02/12/2014, 07:26:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người nào nhận tài sản của người khác thông qua một giao dịch hợp pháp, sau đó gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới bị xử lý hình sự.

    2. Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của gia đình bạn không có dấu hiệu hình sự. Đó chỉ là tranh chấp dân sự, thừa kế tài sản. Nếu gia đình bạn không thống nhất được với nhau về việc chia thừa kế thì có quyền khởi kiện tới tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu bà ngoại bạn không có di chúc hợp pháp thì di sản của bà bạn để lại sẽ chia theo pháp luật cho các thừa kế quy định tại Điều 676, Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005.

  • Xem thêm     

    02/12/2014, 07:10:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Với tình hình xã hội hiện nay thì việc tạo chứng cứ giả để bỏ tù người khác không dễ. Vì vậy, bạn hãy yên tâm là nếu bạn không lấy cắp, biển thủ tiền của công ty thì bạn sẽ không phải bồi thường và họ sẽ không làm gì được bạn.

    2. Bạn chỉ có thể phải bồi thường cho công ty nếu bạn có lỗi, gây thiệt hại tới tài sản của công ty hoặc bạn chiếm đoạt tài sản của công ty ngoài số tiền lương mà bạn được hưởng theo thỏa thuận đôi bên.

  • Xem thêm     

    28/11/2014, 01:44:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì bản án có hiệu lực pháp luật quy định bị cáo phải chấp hành hình phạt theo quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian chấp hành hình phạt (thi hành án hình sự) nếu bị cáo chấp hành tốt, thể hiện sự tiến bộ trong cải tạo thì vẫn có thể được rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt theo hình thức đặc xá., Bạn tham khảo quy định sau đây của luật đặc xá:

    "Điều 10. Điều kiện được đề nghị đặc xá

    1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

     b) Đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành hình phạt tù; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân;

    c) Đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.

     2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều này được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;

    b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;

    c) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;

    d) Khi phạm tội là người chưa thành niên;

    đ) Là người từ 70 tuổi trở lên;

    e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;

    g) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

    3. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc áp dụng điều kiện của người được đề nghị đặc xá theo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước.

    Điều 11. Các trường hợp không đề nghị đặc xá

    Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 10 của Luật này không được đề nghị đặc xá trong các trường hợp sau đây:

    1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

    2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;

    3. Trước đó đã được đặc xá;

    4. Có từ hai tiền án trở lên;

    5. Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

    Điều 12. Quyền của người được đề nghị đặc xá

    1. Được thông báo về chính sách, pháp luật về đặc xá, Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về điều kiện của người được đề nghị đặc xá và thông tin khác về đặc xá liên quan đến người được đề nghị đặc xá.

    2. Liên hệ với thân nhân, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu thập, cung cấp giấy tờ, tài liệu cần thiết để hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá.

    3. Khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương V của Luật này.

    Điều 13. Nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá

    1. Nộp đơn xin đặc xá theo quy định của Luật này.

    2. Khai báo đầy đủ, trung thực thông tin về cá nhân liên quan đến việc đề nghị đặc xá.

    3. Chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá.

     

    Mục 3

     TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ, THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH ĐẶC XÁ

    Điều 14. Hồ sơ đề nghị đặc xá

    1. Đơn xin đặc xá.

    2. Tài liệu chứng minh về cá nhân, hoàn cảnh gia đình của người được đề nghị đặc xá.

    3. Tài liệu chứng minh đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.

    4. Cam kết không vi phạm pháp luật, tiếp tục chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá.

    5. Văn bản đề nghị đặc xá của Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam.

    Điều 15. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá

    Căn cứ vào Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá được thực hiện như sau:

    1. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, thông báo, niêm yết công khai danh sách người được đề nghị đặc xá tại trại giam, trại tạm giam và làm văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét.

    2. Giám thị trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, Giám thị trại tạm giam thuộc quân khu và tương đương có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương. Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương xét duyệt danh sách, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét. Giám thị trại tạm giam thông báo, niêm yết công khai danh sách này tại trại tạm giam.

     3. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị đặc xá được lập theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và lập danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá để trình Hội đồng tư vấn đặc xá xem xét.

    Điều 16. Thủ tục trình Chủ tịch nước danh sách đề nghị đặc xá

    Hội đồng tư vấn đặc xá tổ chức thẩm định hồ sơ, danh sách do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình; lập danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đặc xá trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

    Điều 17. Hướng dẫn về trình tự, thủ tục lập danh sách, thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá

    1. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục lập danh sách, thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá và hướng dẫn thực hiện Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước.

    2. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn, phối hợp thực hiện việc lập danh sách, xét duyệt hồ sơ đề nghị đặc xá.

    Điều 18. Thực hiện Quyết định đặc xá

    Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương có trách nhiệm:

    1. Tổ chức công bố và thực hiện Quyết định đặc xá đối với người được đặc xá;

    2. Cấp giấy chứng nhận đặc xá cho người được đặc xá;

    3. Thông báo ngay bằng văn bản cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người được đặc xá về cư trú. gian chấp hành hình phạt theo thủ tục đặc xá hoặc đại xá.".

  • Xem thêm     

    24/11/2014, 08:30:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự (BLHS), thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.

    Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định như sau:

    a) 5 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 3 năm trở xuống.

    b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 3 năm đến 15 năm.

    c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm.

    Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn nói trên người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.

    Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 2/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, trường hợp người bị kết án cố tình trốn tránh và cơ quan công an đã có quyết định truy nã theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu thi hành bản án hình sự tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ. Cố tình trốn tránh là cố tình giấu địa chỉ, ẩn náu, thay đổi họ tên, hình dạng... làm cho cơ quan có thẩm quyền thi hành án không biết họ ở đâu hoặc không phát hiện được.

  • Xem thêm     

    22/11/2014, 05:30:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Gia đình bạn có thể làm đơn trình bày, đề nghị với cơ quan điều tra để thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Nếu vụ việc ít nghiêm trọng, vai trò của chị bạn là thứ yếu, có nơi cư trú rõ ràng, lại bệnh tật thì cơ quan điều tra có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn với chị bạn.

  • Xem thêm     

    22/11/2014, 05:08:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP, ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn Hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, quy định:

    "Điều 3. Xác định chứng cứ quy định tại Điều 83 của BLTTDS

    1. Theo quy định tại Điều 81 của BLTTDS, thì một trong những điều kiện của chứng cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định; do đó, việc giao nộp chứng cứ và việc thu thập chứng cứ phải thực hiện theo đúng quy định tại các điều luật tương ứng của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này.

    2. Để được coi là chứng cứ quy định tại Điều 81 của BLTTDS, thì việc xác định chứng cứ từ từng loại nguồn chứng cứ cụ thể như sau:

    a) Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.

    b) Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh,… Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.

    Ví dụ 1: Trong vụ tai nạn giao thông, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại được một người cung cấp băng ghi hình về hiện trường vụ tai nạn giao thông. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi hình đó, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại phải xuất trình cho Toà án bản xác nhận của người đã cung cấp cho mình về xuất xứ của băng ghi hình đó.

    Ví dụ 2: Ông A cho ông B vay năm triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng được ông A ghi âm lại toàn bộ nội dung thoả thuận về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và ông B để làm bằng chứng cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn trả nợ, ông B không trả số tiền đó cho ông A. Ông A khởi kiện ông B ra Toà án. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi âm, ông A phải gửi văn bản trình bày về sự việc liên quan tới việc thu âm đó.

    c) Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.

    d) Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 83 của BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.

    đ) Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định của Luật Giám định tư pháp, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và hướng dẫn tại Điều 10 của Nghị quyết này.

    e) Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 9 của Nghị quyết này.

    g) Tập quán, nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.

    Cộng đồng là tập thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán.

    Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.

    Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại;

    Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong buôn bán quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận;

    Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán.

    Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán khi người mẹ chết, chỉ các con gái có quyền, còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để lại. Trong vụ tranh chấp di sản thừa kế do người mẹ để lại, nếu người con gái viện dẫn tập quán đó để bác bỏ quyền thừa kế của các thừa kế là con trai, thì tập quán này không được chấp nhận. Vì đây là tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình cần vận động xoá bỏ theo quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ” ban hành kèm theo Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số.

    h) Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản nếu việc định giá tài sản được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 92 của BLTTDS.

    3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Trong trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang tiếng Việt hoặc đã dịch sang tiếng Việt nhưng bản dịch chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp, thì Toà án không nhận chứng cứ đó. Toà án giải thích cho đương sự biết là họ phải tiến hành việc dịch chứng cứ sang tiếng Việt và làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực. "

    Như vậy, theo quy định trên thì chỉ cần giải trình bằng văn bản chứ không cần phải công chứng, chứng thực gì nội dung văn bản đó, không quy định bắt buộc phải chứng thực chữ ký của người xuất trình chứng cứ. Chỉ cần có văn bản mô tả lại hoàn cảnh ghi âm, nội dung ghi âm là hợp lệ rồi.

  • Xem thêm     

    22/11/2014, 04:34:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu bạn "bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản" thì mới bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 140 BLHS. Nếu bạn đi khỏi địa phương để làm ăn mà gia đình vẫn biết địa chỉ, người chủ nợ vẫn liên hệ được hoặc công an quản lý nhân khẩu vẫn liên hệ được với bạn, biết nơi làm việc với bạn thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự, nếu có tranh chấp thì được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    22/11/2014, 04:20:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bạn phản ứng "tự nhiên" bằng hành vi quay người lại đồng thời vung dao ngang tầm mặt người ta là không có vẻ "không tự nhiên" cho lắm. Trong việc đó thường được xác định là lỗi cố ý và hành vi là cố ý gây thương tích. Sau khi có kết quả giám định thì dù thương tật dưới 11%, hành vi của bạn vẫn có thể bị xử về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS.

  • Xem thêm     

    22/11/2014, 03:42:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Trường hợp của bạn thường gọi là "bom bẩn".... hành vi này thời gian gần đây xảy ra khá nhiều, nguyên nhân từ việc nợ nần, mâu thuẫn cá nhân. Hành vi này là gây rối trật tự công cộng, tùy vào tính chất mức độ và hậu quả xảy ra thì sẽ có biện pháp xử lý phù hợp: Nhẹ thì xử lý hành chính theo quy định của Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội... Nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà vẫn còn vi phạm thì có thể bị xử lý hình sự về tội gây rối trật tự công cộng.

    2. Bạn tham khảo bài viết sau: http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140808/da-xu-phat-nhieu-doi-tuong-nem-bom-ban-tra-thu/632260.html

  • Xem thêm     

    20/11/2014, 05:04:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Bạn cần xem lại giấy tờ vay nợ, biên nhân nợ xem ông A đó vay tiền của vợ chồng bạn với tư cách cá nhân hay vay với tư cách đại diện công ty (ký tê, đóng dấu với tư cách của công ty) để xác định trách nhiệm thuộc về công ty hay thuộc về ông Giám đốc.

    2. Trước sự việc như trên thì gia đình bạn có quyền làm đơn trình báo sự việc tới công an để xem xét dấu hiệu tội phạm: Nếu  ông A lợi dụng danh nghĩa công ty, có hành vi gian đối và mục đích chiếm đoạt tiền của vợ chồng bạn thì ông A đó sẽ bị xử lý hình sự.

    Nếu ông A vay tiên cho công ty thì phải chứng minh được số tiền đó đã nộp vào quỹ của công ty và có thể hiện trên chứng từ tài chính. Nếu ông A nhận số tiền đó mà không nộp lại cho công ti thì có thể xử lý hình sự.

    Nếu ông A vay tiền với tư cách cá nhân nhưng gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tiền vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng thanh toán thì ông A sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

    3. Nếu sau khi kiểm tra xác minh nguồn tin mà không chứng minh được dấu hiệu tội phạm thì vợ chồng bạn có quyền khởi kiện tới tòa án nơi bị đơn cư trú. Hồ sơ khởi kiện bao gồm:

    - Đơn khởi kiện;

    - Giấy vay nợ, biên nhận nợ, xác nhận nợ...

    - CMND, hộ khẩu của bạn;

    - Giấy tờ chứng minh nơi cư trú của bị đơn.

    * Bạn phải nộp tạm ứng án phí tương đương 2% giá trị số tiền khởi kiện

    - Khi giải quyết xong thì bên thua kiện sẽ phải nộp án phí;

    - Thời hạn giải quyết vụ án tranh chấp dân sự khoảng 4-6 tháng theo quy định pháp luật (thực tế có thể dài hơn);

    - Nếu không thỏa thuận về lãi suất thì lãi sẽ được tính là không kỳ hạn.

  • Xem thêm     

    18/11/2014, 07:07:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu mâu thuẫn không thể giải quyết được thì bạn có thể làm đơn trình báo công an. Hành vi đánh người có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự , phụ thuộc vào hậu quả để lại cho bạn. Người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Do vậy người 15 tuổi đánh bạn chỉ bị xử lý hành chính là cùng trong trường hợp này.

  • Xem thêm     

    18/11/2014, 06:55:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu chưa khởi tố tụ án thì vụ việc mới chỉ ở giai đoạn kiểm tra, xác minh nguồn tin. Những người có liên quan, nghi can, nhân chứng... chỉ thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định pháp luật, các quy định tại Chương VIII Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tố cáo - Họ chưa phải là người tham gia tố tụng (chưa có tố tụng) và họ không phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, người làm chứng... như các quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

  • Xem thêm     

    18/11/2014, 06:24:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!


    Bạn có thể tham khảo bài viết sau đây của Ths Trần Thu Hạnh - Khoa Luật - ĐHQGHN về việc phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội danh khác có chung dấu hiệu về chủ thể:

     1.Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với Tội tham ô và các hành vi chiếm đoạt tài sản khác của người có chức vụ quyền hạn.

    Phòng chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ được đặt ra ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời bên cạnh nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giặc dốt và giặc đói. Nhiệm vụ đó, được thể hiện trong chính sách hình sự của Nhà nước ta nhằm đề cao trách nhiệm của cán bộ đồng thời nghiêm trị các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt của công, sắc lệnh số 223 - SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về Tội biển thủ công quỹ đã được ban hành, trong đó quy định “Tội công chức biển thủ công quỹ... bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật... biển thủ. Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên”. Chính sách hình sự này được tiếp tục khẳng định trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 1970 trong đó qui định Tội tham ô tài sản XHCN và các hành vi chiếm đoạt tài sản XHCN khác của người có chức vụ, quyền hạn bằng các chế tài nghiêm khắc tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của họ. Các qui định tương tự cũng được qui định tại Sắc lệnh 03-76 SLT ở miền Nam trước ngày thống nhất đất nước. Bộ luật hình sự đầu tiên, năm 1985 dành một chương tội phạm (Chương IV- Phần các tội phạm), qui định các tội xâm phạm sở hữu XHCN trong đó có Tội tham ô và các hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn. Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS 1999) có cơ cấu ở phần các tội phạm khác với so với BLHS 1985 như hai chương IV và VI của phần các tội phạm trong BLHS 85 nhập thành một chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu, trong BLHS 1999 và đưa Tội tham ô tài sản sang Mục A, các tội phạm về tham nhũng của chương tội phạm về chức vụ...

    Như vậy, có thể khẳng định chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là nhất quán trong việc trừng trị đối với cán bộ có chức, có quyền tham ô tài sản và có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng phương thức lợi dụng chức vụ quyền hạn mà mình có được. Chính sách hình sự này đã góp phần vào công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tham nhũng trong từng giai đoạn cách mạng.

    2.Chức vụ, quyền hạn là đặc điểm chung của cấu thành Tội tham ô và các tội khác có hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ quyền hạn.

    a)Chủ thể của các tội phạm này phải là người có chức vụ, quyền hạn và họ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản bằng các hình thức khác nhau. Vì vậy, “chức vụ, quyền hạn,, là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành định tội hoặc trong cấu thành định khung ở những tội phạm này, đồng thời nó cũng là dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt các tội tham nhũng với các tội phạm khác trong BLHS. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm “chức vụ, quyền hạn,, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc đấu tranh, xử lý tội phạm.

    Điều 277 BLHS 1999 qui định: “Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ” . Theo qui định này, thì người có chức vụ quyền hạn phải thỏa mãn những điều kiện sau:

    Thứ nhất, phải là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy công quyền. Ở nước ta khái niệm công vụ không chỉ là khái niệm “công quyền” trong bộ máy Nhà nước, mà còn bao gồm nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị mà Nhà nước chỉ là một cơ quan trong hệ thống đó. Chỉ người nào có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy công quyền đó mới được coi là người có chức vụ, quyền hạn.Để có được chức vụ quyền hạn này phải qua bầu cử, được bổ nhiệm, được tuyển dụng hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Theo Điều 1, Pháp lệnh Cán bộ công chức ngày 26-2- 1998, được sửa đổi, bổ sung ngày 29-4-2003 thì cán bộ, công chức gồm:

    -   Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

    -   Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

    -   Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một công vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

    -   Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;

    -    Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.

    -   Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, phường, thị trấn

    -  Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.

     Cụ thể hơn, Khoản 3, Điều 1 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005, qui định người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

    Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn phải được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Thông thường khi một người có một chức danh thì thường kèm theo và tương ứng sẽ có một nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, không ít các trường hợp có chức danh nhưng không hoặc chưa được giao nhiệm vụ và do đó chưa phải là chủ thể của Tội tham ô cũng như các tội phạm về chức vụ khác do còn thiếu dấu hiệu “được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ“ như qui định của Điều 277 BLHS 1999. Đây là dấu hiệu rất quan trọng nhưng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không chú ý đến dấu hiệu này mà chỉ chú ý đến chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có, nên không ít trường hợp người phạm tội chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý đã vội xác định họ phạm tội tham ô, mà không xác định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó là lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ công hay nhiệm vụ của một số người giao cho họ.

    Tóm lại, chủ thể của Tội tham ô và các tội phạm chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ quyền hạn thực hiện phải là người có chức vụ, quyền hạn do được bầu, tuyển dụng, bổ nhiệm, được giao nhiệm vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và họ phải được giao thực hiện nhiệm vụ đồng thời có hành vi chiếm đoạt tài sản khi thi hành công vụ.

    b) Căn cứ vào mối quan hệ giữa người có chức vụ quyền hạn với trách nhiệm đối với tài sản, Luật hình sự, xây dựng các cấu thành tội phạm khác nhau cho hành vị chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ quyền hạn. Ở mức độ khái quát nhất thì người có trách nhiệm quản lý tài sản và lợi dụng trách nhiệm đó để chiếm đoạt tài sản do mình quản lý thì sẽ cấu thành Tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS 1999) còn người không có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành những tội phạm về chức vụ khác như: Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280 BLHS 1999), Tội nhận hối lộ (Điều 279 BLHS 1999), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 BLHS 199).... Trong một số trường hợp thì dấu hiệu lợi dụng chức vụ quyền hạn của người có chức vụ quyền hạn sẽ là tình tiết tăng nặng định khung tội phạm như: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS 1999) hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm b, khoản 2, Điều 140 BLHS 1999) hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (điểm c, khoản 1, Điều 48 BLHS 1999 ).

    Như vậy, đặc trưng của Tội tham ô tài sản về dấu hiệu chủ thể phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Đó là người có trách nhiệm đối với tài sản, là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như: thủ quỹ, thủ kho, kế toán, người được giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình... Ngoài ra, còn những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản như: Giám đốc công ty, Chủ nhiệm hợp tác xã, người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức mình. Với qui định này của BLHS 1999 phạm vi chủ thể của Tội tham ô tài sản được mở rộng hơn so với qui định của BLHS 1985 và những qui định trước đó trong Luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, từ đó cũng phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau về phạm vi chủ thể, xuất phát từ khái niệm người có trách nhiệm quản lý tài sản là rất rộng, rất khó xác định được giới hạn của người có trách nhiệm quản lý tài sản đến đâu để xác định có phải là chủ thể của Tội tham ô tài sản hay không? Việc xác định trách nhiệm của một người đối với tài sản là rất quan trọng, nếu xác định không đúng tư cách của người có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt thì dễ nhầm lẫn với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự như: Tội trộm cắp tài sản, Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...

    3.Hình thức, cách thức chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu khách quan để phân biệt Tội tham ô tài sản với những tội phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thực hiện.

    Tội tham ô tài sản và những tội phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thực hiện giống nhau ở chỗ những tội phạm này đều có hành vi chiếm đoạt sản. Theo qui định của pháp luật hình sự thì chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch một cách trái phép tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Việc chuyển dịch tài sản này là trái phép, trái với qui định của pháp luật dân sự về cơ sở thiết lập quyền sở hữu tài sản nên mặc dù dịch chuyển được tài sản nhưng người phạm tội không thiết lập được quyền sở hữu đối với tài sản. Chính dựa trên cơ sở này mà luật hình sự qui định các biện pháp tư pháp như: Tịch thu tiền, bạc, tài sản do phạm tội mà có để thu lại tài sản mà người phạm tội chiếm giữ bất hợp pháp. Đồng thời với việc dịch chuyển trái phép tài sản của người phạm tội thì chủ sở hữu tài sản bị mất quyền kiểm soát đối với tài sản trên cả ba phương diện: quyền chiếm giữ, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp chỉ được khôi phục khi tội phạm bị phát hiện, xử lý và tài sản được thu hồi.

    Cùng có hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng các thức và biện pháp chiếm đoạt tài sản khác nhau thì sẽ cấu thành những tội phạm khác nhau được qui định trong Bộ luật hình sự. Tội tham ô tài sản và những tôi phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thực hiện cũng dựa theo tiêu chí này để phân biệt.

    Đối với Tội tham ô tài sản thì hình thức chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình quản lý. Như đã phân tích ở phần chủ thể, người phạm tội có chức vụ quyền hạn, có trách nhiệm đối với tài sản và họ đã có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý. Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: lén lút, gian dối, công nhiên... Tội tham ô tài sản có cấu thành vật chất, người phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản thì tội phạm mới ở giai đoạn hoàn thành. Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của Tội tham ô mà chỉ có ý nghĩa xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm và xác định khung, mức hình phạt. Tuy nhiên, mức độ chiếm đoạt tài sản được Luật hình sự qui định là căn cứ để phân biệt tội phạm với vi phạm, theo khoản 1 Điều 278 thì lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý từ 2 triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm còn dưới mức đó chỉ bị coi là vi phạm.

    Đối với những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thì cách thức chiếm đoạt tài sản không phải là “lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý” mà bằng cách thức “gian dối”, “lạm dụng tín nhiệm”.... Dấu hiệu “lợi dụng chức vụ quyền hạn” chỉ là tình tiết tăng nặng định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng cách thức gian dối chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS 1999) và “Lợi dụng chức vụ quyền hạn là dấu hiệu tăng nặng định khung qui định tại điểm d, khoản 2, Điều 139.

    Như vậy, điểm khác biệt quan trọng nhất giữa Tội tham ô tài sản và các tội phạm chiếm đoạt tài sản khác của người có chức vụ quyền hạn là cách thức chiếm đoạt tài sản. Nếu lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý sẽ cấu thành tội tham ô, còn chiếm đoạt tài sản bằng cách thức, thủ đoạn khác sẽ cấu thành những tội phạm tương ứng được qui định trong BLHS.

    4.Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với Tội tham ô và những tội phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn.

    Chế tài hình sự áp dụng cho người phạm tội tham ô và những tội phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thực hiện khá nghiêm khắc, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình.

    Những loại hình phạt chính được qui định áp dụng cho người phạm tội tham ô là hình phạt tù, chung thân, tử hình với 04 khung: a) Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. b) Khoản 2, bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. c) Khoản 3, bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm. d) Khoản 4, bị phạt tù từ 20 năm, chung thân, tử hình. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội tham ô tài sản còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Bên cạnh đó đối với những tôi phạm này luật còn qui định Tòa án được quyền áp dụng biện pháp tư pháp “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tôi phạm” (Điều 41 BLHS 1999); “Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi” (Điều 42 BLHS 1999).

    Những chế tài hình sự này đã đáp ứng được việc xử lý đối với người phạm tội tham ô và những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ thực hiện

    5.Một số đề nghị hoàn thiện pháp luật về Tội tham ô và những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ thực hiện.

    a)   Về vấn đề phạm vi khách thể của Tội tham ô tài sản hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Khách thể của Tội tham ô tài sản là quan hệ sở hữu của Nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu. [I] Do nhận thức sai lầm về khách thể của Tội tham ô tài sản nên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng đã dùng yếu tố khách thể để định tội danh. Mà việc định tội danh sai tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả là hình phạt sai, từ đó làm cho hình phạt đã tuyên không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (có thể nhẹ quá hoặc nặng quá), làm cho hình phạt đã tuyên không đạt mục đích dẫn tới không đảm bảo được tính có căn cứ pháp lý của bản án, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Khi xử lý Tội tham ô cần nhận thức tội phạm này có khách thể kép, hành vi phạm tội đồng thời xâm phạm đến hai khách thể là sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và sở hữu. Trong điều kiện tăng cường phòng chống tham nhũng như hiện nay xếp Tội tham ô vào chương các tội phạm về chức vụ là hoàn toàn hợp lý.

    b) Cần có văn bản giải thích rõ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 2.3.4 Điều 278 BLHS.

    Bộ luật hình sự có nhiều tội quy định các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt nhưng nội dung của các tình tiết này đối với từng tội không giống nhau nên không thể coi là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm này cũng như tội phạm khác được. Tuy nhiên, nếu các tội phạm có cùng tính chất, khách thể bị xâm hại giống nhau thì có thể áp dụng tương tự. Và Tội tham ô tài sản trước đây được quy định tại Chương các tội xâm phạm sở hữu, nay do tính chất hành vi phạm tội nên coi là tội phạm về chức vụ nhưng vẫn mang tính chất chiếm đoạt, nên đối với các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001 TTLT/TANDTC-VKSNTC-BCA- BTP ngày 25/12/1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999.

    Ngoài ra, việc định lượng thiệt hại đối với hành vi tham ô tài sản không phải dễ dàng. Đây là một vấn đề vướng mắc không chỉ với Tội tham ô tài sản mà còn đối với các tội phạm chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ thực hiện.

    c)   Giải thích rõ khải niệm người có “chức vụ, quyền hạn”

     Theo quy định của Điều 277 BLHS thì người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

    Việc hiểu thế nào là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định không khó, nhưng hiểu như thế nào trong khi thực hiện công vụ thì thực tiễn xét xử không ít trường hợp còn có ý kiến khác nhau, nhiệm vụ nào được coi là nhiệm vụ công?

    Nếu công vụ được hiểu theo nghĩa là làm nhiệm vụ vì lợi ích cho một tập thể người thì quá rộng, nhưng nếu hiểu công vụ theo nghĩa chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước hưởng lương ngân sách thì cũng chưa thật đầy đủ vì ngay trong khái niệm thế nào là người có chức vụ quy định tại Điều 277 cũng đã nêu “có hưởng lương hoặc không hưởng lương” vẫn có thể là chủ thể của tội tham ô tài sản.

    Hiện nay, nước ta có nhiều loại hình kinh tế, nhiều cơ quan, tổ chức được thành lập nhưng chức năng không rõ ràng, chế độ tiền lương đối với những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức này cũng chưa có quy định cụ thể, có người hưởng lương do ngân sách cấp nhưng lại làm việc cho một tổ chức nước ngoài, có người hưởng lương không do ngân sách cấp nhưng lại làm việc trong cơ quan công quyền.... Vì vậy, việc xác định một người thực hiện hành vi phạm tội có phải là người có chức vụ hay không là một vấn đề phức tạp.

    Do đó, để áp dụng đúng và thống nhất, các cơ quan chức năng cần thống nhất hướng dẫn:

    Người có “chức vụ” được quy định tại Điều 278 BLHS được hiểu đó là cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2003) và Điều 1 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, bao gồm:

    - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ nhất định theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

    - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

    - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;

    - Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;

    - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;

    - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ quan: Văn phòng Chủ tịch nước; văn phòng Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước; cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; Thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa của Nhà nước; các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước;

    - Những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc những người được những cơ quan, tổ chức đó ủy quyền thực hiện một nhiệm vụ, công vụ trong một thời gian nhất định.

    d)                           Hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS trong khi xét xử các vụ án tham ô tài sản.

    Căn cứ vào những lúng túng và sai sót của Tòa án các cấp còn tồn tại trong thực tiễn xét xử các vụ án về Tội tham ô tài sản, chúng tôi thấy lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp cần quán triệt để các Thẩm phán thống nhất nhận thức:

    Đối với việc các bị cáo phạm Tội tham ô tài sản nộp lại số tiền đã chiếm đoạt, tuy được coi là tình tiết giảm nhẹ “tự nguyện sửa chữa, bồi thường, khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS; nhưng tình tiết giảm nhẹ này chỉ có ý nghĩa đối với hậu quả xâm hại khách thể là quan hệ sở hữu, trong khi hành vi tham ô tài sản còn xâm hại đến khách thể quan trọng hơn đó là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Do đó, tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS chỉ có ý nghĩa với mức độ nhất định đối với người phạm tội tham ô tài sản, khác với các trường hợp người phạm tội trộm cắp tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản... nộp lại số tiền đã chiếm đoạt.

    e)                               Quy định hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc trong Tội tham ô tài sản.

    Hiện nay, ngoài việc quy định các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đối với Tội tham ô tài sản thì Điều 278 BLHS còn quy định các hình phạt bổ sung nhằm tăng cường hiệu quả trừng trị, răn đe tội phạm. Hình phạt tiền là một trong những hình phạt bổ sung đó. Phạt tiền tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến tình trạng tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội. Các mức phạt tiền cao thấp khác nhau cũng gây nên khả năng tác động ý thức khác nhau.

    Tham ô tài sản là loại tội phạm chức vụ mang tính chất chiếm đoạt, người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi phạm tội họ nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện vì mục đích tư lợi, vì lợi ích của bản thân, bất chấp hậu quả xảy ra. Trong Tội tham ô tài sản, tiền là lợi ích vật chất mà người phạm tội mong muốn đạt được. Tăng mức phạt tiền là đánh vào lợi ích của người phạm tội, thông qua đó đạt được mục đích của hình phạt. Tăng mức phạt tiền còn nhằm tước bỏ phương tiện phạm tội, góp phần hạn chế hành vi phạm tội lại của tội phạm. Do đó cần phải tăng cường mức phạt tiền đối với tội tham ô tài sản để tác động mạnh hơn nữa tới ý thức của người phạm tội. Mặt khác, nhà làm luật cũng nên quy định hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc trong Tội tham ô tài sản, không nên quy định là hình phạt mang tính lựa chọn như hiện nay./.

  • Xem thêm     

    18/11/2014, 06:01:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Hành vi quay clip cảnh bạn đó quỳ gối xin lỗi rồi tung lên các trang mạng xã hội là xúc phạm danh dự nhân phẩm của họ. Nếu nạn nhân có đơn tố giác thì người tung hình ảnh đó sẽ bị xử lý theo pháp luật, nhẹ cũng xử lý hành chính.... Vì vậy em bạn nên gỡ clip đó xuống và có lời xin lỗi bạn đó để mọi việc được giải quyết êm đẹp tránh mâu thuẫn gia tăng ra vướng mắc vào pháp lý...

  • Xem thêm     

    17/11/2014, 11:52:26 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

     "Tội phạm công nghệ cao" là một khái niệm pháp lý chỉ một nhóm loại tội phạm liên quan tới công nghệ cao thuộc chương XIX, Bộ luật hình sự về Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Hành vi của bạn đó thể bị xử lý về tội theo Điều 226b Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 :  Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

    "Điều 226b. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm:
      a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
      b) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
      c) Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
      d) Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Phạm tội nhiều lần;
      c) Có tính chất chuyên nghiệp;
      d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      đ) Gây hậu quả nghiêm trọng;
      e) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".
69 Trang «<13141516171819>»