Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    05/02/2012, 08:16:29 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau;
            1. Khi bố bạn còn sống thì bố bạn có thể ủy quyền cho bạn bán hoặc cho thuê ngôi nhà đó. Hợp đồng ủy quyền phải được lập thành văn bản, có công chứng theo quy định. Bạn và bố bạn cần đến phòng công chứng để thực hiện thủ tục ủy quyền. Tuy nhiên bạn lưu ý là hợp đồng ủy quyền chỉ có hiệu lực đến khi bố bạn qua đời. Do vậy, sau khi bố bạn chết thì bạn không được quyền thực hiện nội dung của hợp đồng ủy quyền nữa, việc định đoạt tài sản sẽ thuộc về các thừa kế của bố bạn theo di chúc hoặc theo pháp luật.
            2. Di chúc của bố bạn có hiệu lực từ thời điểm bố bạn qua đời (chết). Do vậy, nếu bố bạn đã lập di chúc nhưng trước khi chết, bố bạn đã bán ngôi nhà đó thì di chúc đương nhiên vô hiệu. Nếu ngôi nhà cho thuê thì không ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc. Nếu bố bạn muốn hủy di chúc thì đến phòng công chứng nơi lập di chúc để tiến hành thủ tục hủy di chúc.
            3. Theo quy định pháp luật thì bên cho thuê nhà phải có trách nhiệm sửa chữa nhà. Bên đi thuê chỉ có nghĩa vụ sửa chữa những hư hỏng do mình gây ra. Việc định đoạt sân ra sao do gia đình bạn quyết định.
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 10:25:08 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu mâu thuẫn nhỏ thì công an chỉ có thể hòa giải, nhắc nhở các bên. Nếu các bên không tự giải quyết được hoặc đánh nhau gây thương tích thì phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
            Nếu vụ việc đã có dấu hiệu hình sự mà công an không giải quyết thì bạn mới có thể khiếu kiện công an theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo. Nếu vụ việc chưa có dấu hiệu hình sự, mà chỉ là quan hệ dân sự thì các bên phải tự tìm cách giải quyết... Công an chỉ có thể hòa giải, nhắc nhở các bên...
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 10:16:56 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Nếu ngôi nhà đó là tài sản chung của mẹ bạn và dì bạn, đồng thời mẹ bạn muốn cùng được đứng tên hoặc chia tài sản chung thì có thể lập hợp đồng có công chứng để cùng đứng tên hoặc chia nhà đất theo quy định của pháp luật.
    2. Nếu chỉ để phòng ngừa tranh chấp khi dì bạn qua đời thì có thể yêu cầu dì bạn lập di chúc để định đoạt phần giá trị của mẹ bạn trong ngôi nhà đó cho mẹ bạn hoặc cho bạn. Bạn lưu ý là nếu dì bạn lập di chúc để lại một phần di sản cho mẹ bạn nhưng mẹ bạn lại chết trước dì bạn thì phần di chúc đó vô hiệu.
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 10:10:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Nếu gia đình bạn sử dụng đất thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thì được bồi thường quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
    2. Nếu trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp quy định tại Điều 20 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thì được hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.
    3. Đơn giá bồi thường được tính theo đơn giá vào thời điểm có quyết định thu hồi đất.
    4. Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp bồi thường, hỗ trợ cao hơn mức Nhà nước quy định. Do vậy, bạn có thể thỏa thuận về việc bồi thường, hỗ trợ với doanh nghiệp có dự án đó.
    5. Ngôi mộ vô chủ nằm trong đất của gia đình bạn thì gia đình bạn không được tiền đền bù di chuyển mồ mả.
    6. Việc xác định loại đất phụ thuộc vào hồ sơ địa chính. Nếu trong sổ địa chính ghi loại đất là rừng sản xuất hoặc thực tế trồng cây keo thì là đất loại đất trồng rừng.
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 09:58:31 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Theo quy định của bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 thì trộm cắp tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên thì sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 138 BLHS.
             Vụ việc của bạn đã trình báo công an thì bạn hãy chờ kết quả giải quyết. Nếu bạn có thêm thông tin nào về vụ việc đó thì có thể trình báo kịp thời để được công an xem xét, giải quyết cho bạn. Nếu công an phường chậm giải quyết thì bạn có thể gửi đơn thúc giục giải quyết hoặc trình bày vụ việc với công an quận. Bạn đề nghị công an quận khởi tố vụ án và giải quyết theo quy định pháp luật.
            
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 09:17:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1.                 Căn cứ đòi lại quyền sử dụng đất

    Theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu tài sản  hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền mới có quyền đòi lại tài sản do người khác chiếm hữu. Do vậy, nếu bố bạn có căn cứ xác định là chủ sử dụng đất hợp pháp (có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 49 hoặc Điều 50 luật đất đai năm 2003) thì mới có thể đòi lại được các diện tích đất đó.

    Nếu các phần đất đó có giấy tờ hợp pháp đứng tên ông bà nội bạn thì tất cả các cô, chú, bác của bạn cùng khởi kiện thì mới có thể đòi lại được đất…

    Nếu gia đình bạn không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 luật đất đai thì không có căn cứ pháp lý để đòi lại các diện tích đất đó.

    2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

    Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì UBND phường không có quyền giải quyết tranh chấp đất đai. UBND phường chỉ có quyền hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 135 luật đất đai. Nếu hòa giải không thành thì một trong các bên có quyền yêu cầu UBND quận hoặc Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai. Do vậy, gia đình bạn cần khởi kiện để Tòa án giải quyết (nếu phần đất tranh chấp đã có  GCN QSD đất hoặc có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 luật đất đai) hoặc gửi đơn yêu cầu UBND quận giải quyết (nếu đất không có giấy tờ theo quy định tại Điều 50 luật đất đai)

    Bạn có thể trình bày rõ hơn nội dung để được luật sư tư vấn hoặc liên hệ trực tiếp với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 08:53:46 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Nếu phần đất chuyển nhượng không đủ diện tích, kích thước tách thửa thì bạn không thể thực hiện được thủ tục chuyển nhượng, không thể công chứng, chứng thực được hợp đồng chuyển nhượng.
    - Nếu các bên không thỏa thuận được việc chuyển nhượng thì có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đó Tòa án sẽ tuyên bố Hợp đồng vô hiệu vàn giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 BLDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao.
    - Nếu không tách được thửa đất thì bạn không thể xin cấp biển số nhà được...
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 08:44:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    Để tránh rủi ro pháp lý khi mua nhà đất bạn cần làm rõ những nội dung sau:
    - Thửa đất đã có GCN chưa?
    - Nguồn gốc thửa đất thế nào? Việc cấp GCN QSD đất có đúng pháp luật hay không?
    - Người chuyển nhượng có quyền chuyển nhượng không?
    - Việc chuyển nhượng có nhằm trốn tránh nghĩa vụ dân sự hay không?
    - Thửa đất có bị thế chấp, kê biên, góp vôn, đặt cọc.. hay không (có bị hạn chế quyền sở hữu không)?
    - Đất có phù hợp với quy hoạch hay không?
    - Thửa đất đó có tranh chấp hay không?
    - Chủ sử dụng đất có đáng tin cậy hay không?.....
          Những thông tin đó bạn có thể yêu cầu bên chuyển nhượng cam đoan, giải trình. Ngoài ra, để xác minh thông tin mà bên chuyển nhượng nêu ra bạn có thể tìm hiểu ở hàng xóm và chính quyền địa phương (cán bộ địa chính cấp xã phường..).
          Bạn cũng có thể nhờ luật sư thẩm định và tiến hành thủ tục chuyển nhượng cho bạn để đảm bảo an toàn về mặt pháp lý và nhanh gọn thủ tục mua bán, chuyển nhượng.
          Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:53:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Với hành vi đột nhập trái phép

    "Điều 124. Tội xâm phạm chỗ ở của công dân

    1. Người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm."

            Theo nội dung bạn nêu ở trên thì việc bạn vào nhà người đó là do "lời mời" của cô gái và bạn cũng chưa có hành vi nào nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến chỗ ở của ông ấy nên công an chưa đủ căn cứ để khởi tố bạn theo quy định tại Điều 124 BLHS.

    2. Với hành vi lạm dụng con gái ông
            Theo thông tin bạn nêu trên thì quan hệ giữa bạn với cô gái là quan hệ yêu đương lành mạnh, không có hành vi lạm dụng tình dục hoặc tiền bạc. Cô gái cũng đã trên 16 tuổi do vậy, chưa có căn cứ để xác định bạn phạm tội theo các quy định của bộ luật hình sự hiện hành.
            Tuy nhiên, với những cô gái tuổi đời còn quá trẻ như vậy thì bạn không nên quan hệ thái quá và cũng không nên có những hành động tương tự như vậy để tránh những rắc rối có thể xảy ra (Tình yêu như một cơn mưa, nó có thể làm tươi tốt những cây trưởng thành nhưng cũng có thể làm nát những cây non).

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:34:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:33:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
          Theo thông tin mà bạn nêu trên thì người đó có thể phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 140 BLHS, cụ thể như sau:
    " Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản..."

          Nếu người đó bị khởi tố hoặc bạn tìm được người đó thì bạn có cơ hội lấy lại được tài sản. Bạn có thể trình báo toàn bộ sự việc trên với công an để được giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:24:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Nếu ông bạn có di sản để lại và bố bạn chết trước hoặc chết cùng ông bạn thì anh, chị em bạn được thừa kế thế vị đố với di sản đó theo quy định tại Điều 677 BLDS. Nếu nhà đất đó đã được định đoạt hợp pháp cho người khác (di sản không còn) thì bạn không được hưởng thừa kế nữa.

    (Lưu ý: Bạn cần viết nội dung câu hỏi bằng tiếng Việt, có dấu)

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:18:17 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn tham khảo nội dung tư vấn của bạn caythongnoel ở trên!
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 07:16:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Theo thông tin bạn nêu thì số tiền 4 triệu chuyển qua tài khoản bạn có thể đòi lại theo thủ tục tố tụng dân sự (khởi kiện đòi nợ). Còn số tiền 4 triệu trao tay, không có biên bản gì thì không có chứng cứ pháp lý để bạn đòi lại họ (trừ trường hợp họ thừa nhận khoản nợ đó).
               Tuy nhiên, với tinh thần "còn nước, còn tát" thì bạn có thể gửi đơn đến trường bạn gái đó và đơn ra công an để làm rõ sự việc. Với sinh viên thì cách thức đó cũng có thể tạo ra cơ hội để lấy lại tiền cho bạn...
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 06:57:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Trách nhiệm hình sự:
           Theo thông tin bạn nêu thì người điều khiển xe ô tô chở phạm nhân đã phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 BLHS. Cụ thể như sau:
           

    Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

              1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.”.

              2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết hai người;

    b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

              3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết ba người trở lên;

    b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%.

    e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên

              4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

              5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


    2. Trách nhiệm dân sự:
          Cơ quan công an đó sẽ phải bồi thường cho gia đình bạn các khoản tiền như sau: Tiền chi phí cứu chữa mẹ bạn trước khi chết + Tiền mai táng phí + Tiền cấp dưỡng cho người thân (bà Nội) + Tiền tổn thất về tinh thần không quá 60 tháng lương tối thiểu.
          Cụ thể Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:

    "Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

                2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

                2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

                2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

                 a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.    


                Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

                b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

                - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

                - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

                - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

                2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

                a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

                b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

                 c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

                 d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

  • Xem thêm     

    04/02/2012, 02:36:29 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
           Nếu công an huyện chậm giải quyết thì bạn có thể làm đơn gửi đến công an huyện để được xem xét. Nếu không có kết quả thì bạn không được giải quyết thỏa đáng thì gửi đơn đến công an tỉnh.
           Thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin theo quy định tại Điều 103 BLTTHS là 20 ngày. Thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 119 BLTTHS là khoảng 2 - 4 tháng tùy từng hợp...
  • Xem thêm     

    04/02/2012, 02:30:04 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Người có chuyên môn là người có khả năng thương thuyết, có uy, có thể tạo ra một sức ép đủ để con nợ trả tiền cho bạn. Người có có thể làm nghề đòi nợ hoặc luật sư có kinh nghiệm về lĩnh vực này... Những người này đòi nợ rất hiệu quả trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Còn nếu bạn nhờ nhầm người, dùng những thanh niên dễ bị kích động, không hiểu biết pháp luật hoặc những đối tượng "bất hảo" chỉ biết nói chuyện bằng đao kiếm thì bạn có thể bị liên lụy nếu những người đó vi phạm pháp luật (Cướp, cưỡng đoạt tài sản, giam giữ người trái phép, cố ý gây thương tích, giết người...).
            Bạn cũng lưu ý là nếu ủy quyền đòi nợ thì phải lập văn bản, có ghi rõ nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền và thời hạn ủy quyền. Bạn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi ủy quyền. Nếu người nhận ủy quyền thực hiện nội dung ủy quyền vượt quá phạm vi ủy quyền
    (Cướp, cưỡng đoạt tài sản, giam giữ người trái phép, cố ý gây thương tích, giết người...) thì họ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với hành vi vượt quá đó...
  • Xem thêm     

    02/02/2012, 10:21:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Bạn có thể trình báo vụ việc với công an để được giải quyết. Nếu vụ việc lừa đảo chỉ có thực hiện 1 lần với một nạn nhân, số tiền là 2 triệu đồng thì có thể phải chờ đợi khá lâu mới được giải quyết (vì vụ việc nhỏ quá...!). Tuy nhiên, nếu nhiều người cùng bị lừa như vậy hành vi lừa đảo đó là của nhóm tội phạm có tổ chức thì vụ việc sẽ sớm được giải quyết. Đó cũng là bài học để chúng ta cảnh giác... 
  • Xem thêm     

    02/02/2012, 10:09:27 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Với thông tin bạn nêu trên, luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Hợp đồng ủy quyền của bạn không còn hiệu lực
     
    Ðiều 589 BLDS năm 2005 quy định: "Chấm dứt hợp đồng ủy quyền
     
    Hợp đồng ủy quyền chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
     
    1. Hợp đồng ủy quyền hết hạn;
     
    2. Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
     
    3. Bên ủy quyền, bên được ủy quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định tại Ðiều 588 của Bộ luật này;
     
    4. Bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết."
     
    Như vậy, theo quy định của pháp luật thì một trong các bên chết là căn cứ chấm dứt hiệu lực của Hợp đồng ủy quyền. Do vậy, hợp đồng ủy quyền của cha bạn đối với bạn không còn hiệu lực kể từ thời điểm cha bạn qua đời, bạn không thể dùng hợp đồng ủy quyền đó để rút tiền được nữa.
    2. Quyền thừa kế di sản của cha bạn thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của bạn theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 676 BLDS bao gồm: ông bà nội bạn (nếu còn sống), mẹ bạn (nếu còn sống) và các anh em của bạn. Số tiền tiết kiệm của cha bạn thuộc về các thừa kế của cha bạn theo quy định pháp luật và phải có đồng thuận của các thừa kế thì mới rút được số tiền đó khỏi ngân hàng. Nếu các anh chị em bạn không thống nhất được việc phân chia số tiền đó thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định pháp luật về thừa kế.
     
    Vậy cán bộ Ngân hàng giải quyết vụ việc và hướng dẫn bạn như vậy là đúng pháp luật.
  • Xem thêm     

    02/02/2012, 09:57:13 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu chỉ có nội dung như bạn nêu trên thì gia đình bạn không vi phạm pháp luật và không bị xử phạt hành chính, hàng xóm nhà bạn cũng không có căn cứ nào để khởi kiện gia đình bạn. Tuy nhiên, hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau, gia đình bạn tự do sinh hoạt nhưng không nên làm ảnh hưởng đến lối đi của nhà hàng xóm để tránh mâu thuẫn có thể xảy ra...