NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI

Chủ đề   RSS   
  • #494581 19/06/2018

    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI

    TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI

    Trước tiên, cần phân biệt tranh chấp về đất đai và tranh chấp đất đai. Hiểu nôm na, tranh chấp đất đai là tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đối với phần đất đang tranh chấp, ví dụ thửa đất số 10 ông A đứng tên đăng ký trong sổ địa chính năm 1999 nhưng ông B lại được cấp GCN năm 2006 từ đó phát sinh tranh chấp do cả 2 bên đều cho rằng mình là người có quyền sử dụng thửa đất số 10 và cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải kết luận ông A hay ông B có quyền sử dụng thửa đất đó. Còn tranh chấp về đất đai là tất cả những tranh chấp gì có liên quan tới đất đai, tức bao gồm cả tranh chấp đất đai hay nói cách khác tranh chấp đất đai là một bộ phận của tranh chấp về đất đai, những bộ phận còn lại gồm tranh chấp các hợp đồng giao dịch liên quan tới đất đai, thừa kế di sản là quyền sử dụng đất, chia tài sản chung là quyền sử dụng đất...v..v....

    Việc phân biệt tranh chấp về đất đai và tranh chấp đất đai như vừa nêu là không quá khó và được hướng dẫn khá chi tiết tại điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiều người, gồm cả những người tiến hành tố tụng, bị lẩn lộn. Ví dụ bà A yêu cầu ông B phải chia thừa kế cho bà đối với di sản là thửa đất số 20. Rõ ràng đây là tranh chấp thừa kế (nhưng có liên quan tới đất đai nên là tranh chấp về đất đai) chứ không phải tranh chấp đất đai, nhưng có khá nhiều Tòa vẫn yêu cầu các bên phải hòa giải tại UBND cấp xã trước thì mới đủ điều kiện khởi kiện. Hoặc, ông C yêu cầu bà D phải chia tài sản chung là thửa đất số 30 vì GCN ghi là cấp cho Hộ bà D mà ông C có tên trong hộ khẩu của bà D tại thời điểm được cấp GCN, đây là tranh chấp chia tài sản chung (nhưng có liên quan tới đất đai nên là tranh chấp về đất đai) chứ không phải tranh chấp đất đai, nhưng nhiều Tòa cũng yêu cầu phải hòa giải trước ở UBND cấp xã. Về phần mình, UBND cấp Xã thường cứ có Công văn hướng dẫn của Tòa án là sẽ tổ chức hòa giải  chứ không tìm hiểu việc tổ chức hòa giải của mình có đúng với qui định tại điều 202 Luật đất đai 2013 hay không.

    Đừng nghĩ sai phạm nêu trên là sai phạm nhỏ. Ở cấp sơ thẩm hậu quả không lớn, chỉ gây phiền hà, tốn kém thì giờ và tiền bạc của người khởi kiện khi phải thực hiện một thủ tục "thừa" vì không phải là điều kiện để khởi kiện, nhưng ở cấp Phúc thẩm mà Thẩm phán bị "lẩn lộn" như  vậy thì hậu quả không nhỏ, bởi cấp Phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo qui định tại khoản 4 điều 308 và điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 khi cho rằng người khởi kiện không đủ điều kiện khởi kiện (không hòa giải ở UBND cấp xã) mà Tòa sơ thẩm vẫn thụ lý giải quyết.

    Cập nhật bởi TranTamDuc.1973 ngày 11/11/2019 03:05:35 CH

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    41648 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

6 Trang <123456>
Thảo luận
  • #496201   06/07/2018

    Trong bản án phúc thẩm mà anh TranTamDuc.1973 cung cấp, UBND huyện chỉ tham gia với vai trò cung cấp thông tin xác minh. Nếu UBND huyện tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cung cấp hồ sơ đã cấp Giấy chứng nhận và lập phương án bồi thường thì rất có thể kết quả vụ án sẽ khác.

    mình đã đề cập là không rõ cơ sở pháp lý nào để Tòa xác định 2 tỷ tiền bồi thường về đất là tài sản chung, bởi tài sản chung ở đây là quyền sử dụng đất. Nếu việc xem xét lại đối tượng có quyền sử dụng đất được thực hiện mà dẫn đến hệ quả là làm thay đổi đối tượng sử dụng đất theo GCN đã cấp thì sẽ dẫn đến thay đổi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và như vậy, số tiền các bên được hưởng có thể sẽ hoàn toàn khác so với bản án phúc thẩm đã nêu.

    một vấn đề nữa là nếu xem xét lại phương án bồi thường đất trong thời điểm hiện tại thì có thể tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư cũng có sự thay đổi. Bởi vì nếu vụ việc xảy ra ở TP.HCM thì nếu phương án bồi thường đã được ban hành theo QĐ số 35/2010/QĐ-UBND mà nay được điều chỉnh lại, phương án mới phải áp dụng theo Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND và ngay thời điểm hiện nay, TP.HCM đang dự thảo thay thế QĐ 23/2015/QĐ-UBND; bên cạnh đó, đơn giá đất hiện nay cũng đã có sự thay đổi so với trước đây.

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn tuphapq11 vì bài viết hữu ích
    hungmaiusa (06/07/2018) tienhuynhpham1990 (09/07/2018)
  • #496374   08/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    tuphapq11 viết:

    mình đã đề cập là không rõ cơ sở pháp lý nào để Tòa xác định 2 tỷ tiền bồi thường về đất là tài sản chung, bởi tài sản chung ở đây là quyền sử dụng đất. Nếu việc xem xét lại đối tượng có quyền sử dụng đất được thực hiện mà dẫn đến hệ quả là làm thay đổi đối tượng sử dụng đất theo GCN đã cấp thì sẽ dẫn đến thay đổi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và như vậy, số tiền các bên được hưởng có thể sẽ hoàn toàn khác so với bản án phúc thẩm đã nêu.

    Quyền sử dụng đất là quyền tài sản vì trị giá được bằng tiền (Điều 115 BLDS 2015), khi tài sản chung không chia được bằng hiện vật thì được bán đi để chia theo tiền (Điều 219 BLDS 2015). Trường hợp này tài sản chung là QSD 11.800m2 đất nông nghiệp trị giá bằng 2 tỷ đồng và nhà nước thu hồi đất, bồi thường trị giá 2 tỷ đồng cho người có quyền tài sản, từ đó Tòa xác định trị giá 2 tỷ đồng tài sản QSDĐ 11.800m2 đất nông nghiệp là tài sản chung là đúng pháp luật.

    Theo phương án bồi thường đã được duyệt thì 11.800m2 này  được bồi thường trị giá là 2 tỷ đồng. Như vậy, dù GCN cấp cho 1 mình ông B (tài sản riêng) hay cấp cho cả 5 anh em của ông B (tài sản chung) thì số tiền bồi thường trị giá 2 tỷ đồng vẫn không thay đổi, tức phương án bồi thường không thay đổi nên số tiền các bên được hưởng cũng sẽ không thay đổi trừ khi thay đổi Hội đồng xét xử phúc thẩm (nguyên tắc chia tài sản chung là có xem xét công sức đóng góp vào khối tài sản chung của các bên, tuy nhiên Luật không qui định chuẩn chung về xem xét công sức đóng góp nên việc này hoàn toàn lệ thuộc vào Hội đồng xét xử, nghĩa là HĐXX phúc thẩm này thấy công sức của ông B chiếm 50% nhưng HĐXX phúc thẩm khác chưa chắc thấy như vậy cũng không sai luật).

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496376   08/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    tuphapq11 viết:

    một vấn đề nữa là nếu xem xét lại phương án bồi thường đất trong thời điểm hiện tại thì có thể tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư cũng có sự thay đổi. Bởi vì nếu vụ việc xảy ra ở TP.HCM thì nếu phương án bồi thường đã được ban hành theo QĐ số 35/2010/QĐ-UBND mà nay được điều chỉnh lại, phương án mới phải áp dụng theo Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND và ngay thời điểm hiện nay, TP.HCM đang dự thảo thay thế QĐ 23/2015/QĐ-UBND; bên cạnh đó, đơn giá đất hiện nay cũng đã có sự thay đổi so với trước đây.

    Bạn đã nhầm lẫn quan hệ tranh chấp trong vụ án này. Là tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung đối với 11.800m2 đất nông nghiệp theo giá trị QSDĐ được bồi thường là 2 tỷ đồng chứ không phải tranh chấp vPhương án bồi thường. Nói cách khác, các đương sự đều đồng ý việc nhà nước bồi thường 2 tỷ đồng là đúng và họ chỉ yêu cầu chia tài sản chung đối với 2 tỷ đồng này, không ai tranh chấp phương án bồi thường thì sẽ không có chuyện "xem xét lại phương án bồi thường đất trong thời điểm hiện tại".

    Quan điểm này của bạn đúng trong trường hợp ví dụ như năm 2010 theo phương án bồi thường đã được duyệt thì 1 m2 đất nông nghiệp phải được bồi thường bằng 100.000  đồng thế nhưng vì lý do gì đó mà chỉ bồi thường có 70.000 đồng, nay người có đất bị ảnh hưởng bởi dự án biết và khiếu nại thì sẽ xem xét bồi thường lại cho họ theo qui định mới về thu hồi, bồi thường. Hoặc năm 2012 ông A có đất bị ảnh hưởng bởi dự án khu dân cư VL và được bồi thường 2 tỷ đồng cho cái ao rộng 2000m2, nay ông A biết cái ao của mình thực tế rộng tới 2350m2 chứ không phải 2000m2 nên khiếu nại yêu cầu bồi thường bổ sung, nếu kết quả đo đạc lại đúng là cái ao 2350m2 thì phần 350m2 chưa bồi thường theo phương án cũ phải bồi thường theo qui định mới.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496373   08/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Đúng ra, trong vụ này, người khởi kiện phải đồng thời yêu cầu chia tài sản chung và hủy GCN cùng các Quyết định thu hồi, bồi thường đất của ông B. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ yêu cầu chia tài sản chung mặc dù họ có Luật sư bảo vệ, đó là điều đáng suy nghĩ thứ nhất. Theo qui định tại điều 34 BLTTDS 2015 thì Tòa sơ thẩm có quyền hủy những Quyết định cá biệt có liên quan trong quá trình xét xử vụ án dân sự nhưng Tòa sơ thẩm trong trường hợp này cũng không thực hiện quyền đó của mình là điều đáng suy nghĩ thứ hai. Từ hai việc "không bình thường" vừa nêu dẫn tới hậu quả cùng 1 thửa đất nông nghiệp 11.800m2 lại có 2 thứ giấy tờ đều có hiệu lực pháp luật nhưng xác định đối tượng có quyền sử dụng khác nhau :

    - GCN + Các quyết định thu hồi, bồi thường của ông B: do không bị hủy nên vẫn còn giá trị pháp lý, giấy tờ này xác định ông B có quyền sử dụng 11.800m2 đất nông nghiệp nên ông B có quyền căn cứ vào đây để nói 2 tỷ tiền bồi thường giá trị QSDĐ là của riêng ông.

    - Bản án phúc thẩm : Bản án này có hiệu lực pháp luật nên những người anh em khác của ông B có quyền yêu cầu thi hành án giao tiền cho mình.

    Muốn xác định đây là tài sản chung thì Tòa án phải tuyên hủy GCN cùng các Quyết định thu hồi, bồi thường của ông B trước. Tòa không làm như vậy thì rõ ràng nếu ông B không hợp tác sẽ  rất khó thi hành án. Rất may là sau khi có Bản án phúc thẩm, tất cả anh em của ông B đã vui vẻ chấp hành Bản án này.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496383   08/07/2018

    Theo mình nghĩ thì việc tranh chấp đất đai và tranh chấp thừa kế thì nhằm xác định thuộc thẩm quyền của tòa án hay ubnd. Theo ý kiến của mình thì bạn phân tích tranh chấp đất đai và tranh chấp khác như tranh chấp thừa kế thì hợp lí hơn. Còn về vấn đề bạn nói rủi ro, vướn mắc trong nếu xác định sai loại tranh chấp thì mình nghĩ rất ít. Bởi khi ra tòa hay ubnd thì người ta cũng đều hòa giải là chính trường hợp không hòa giải được thì cũng đều phải ra tòa và nhờ quyết định cuối cùng của tòa án.

     
    Báo quản trị |  
  • #496406   09/07/2018

    Như anh TranTamDuc.1973 đã đề cập, trong vụ án này HĐXX đã không xét lại tính pháp lý của GCN và QĐ bồi thường, và mình cũng đề cập việc UBND huyện không tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là một thiếu sót làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án.

    Nếu không có những thiếu sót này, GCN, QĐ bồi thường sẽ có thể bị xác định là trái pháp luật và bị thu hồi.

    quy trình ban hành QĐ bồi thường hiện nay cơ bản là: Lập Phương án bồi thường -> ban hành QĐ bồi thường; QĐ bồi thường căn cứ vào nội dung, giá trị bồi thường và giá trị hỗ trợ, ĐỐI TƯỢNG BỒI THƯỜNG được xác định trong Phương án bồi thường, có thể nói, QĐ bồi thường và Phương án bồi thường ko thể tách rời.

    Như vậy trong trường hợp GCN, QĐ bồi thường bị hủy bỏ, số tiền 2 tỷ đồng tiền bồi thường về đất và cả 1 tỷ tiền hỗ trợ chuyển đồi nghề sẽ không còn cơ sở pháp lý để chi trả cho gia đình ông B nữa. do xác định sai đối tượng được cấp GCN và đối tượng bồi thường, Phương án bồi thường cũng cần phải được hủy bỏ để xem xét xây dựng lại vì đã xác định sai ĐỐI TƯỢNG BỒI THƯỜNG, từ đó làm căn cứ ban hành QĐ bồi thường mới.

    theo các quy định chuyển tiếp về bồi thường hỗ trợ tái định cư tại QĐ 35/2010; QĐ 23/2015 thì việc áp dụng quy định bồi thường được xác định ngay tại thời điểm lập Phương án bồi thường. Như vậy, khi hủy bỏ Phương án bồi thường trái pháp luật và lập lại Phương án mới thì phải áp dụng các quy định tại thời điểm lập Phương án mới, tức là có thể sẽ có sự thay đổi về giá trị bồi thường.

    Mặt khác, việc xem xét lại hồ sơ cấp Giấy chứng nhận còn có thể tạo điều kiện thu thập thêm thông tin để xác định diện tích đất do cha mẹ để lại là bao nhiêu, diện tích ông B khai phá thêm là bao nhiêu, giá trị tài sản, công trình trên đất phát sinh từ thời điểm nào, do ai tạo lập...

    mình đã đề cập từ đầu là vụ án này chưa được giải quyết triệt để, bởi vì nếu giải quyết triệt để tất cả các vấn đề trên: vai trò của UBND huyện, giá trị của GCN và QĐ bồi thường cần phải được làm rõ. Khi đó, kết quả giải quyết vụ án, số tiền các bên được hưởng có thể sẽ rất khác so với bản án phúc thẩm đã nêu.

     

     
    Báo quản trị |  
  • #496408   09/07/2018

    mình chưa được trực tiếp tiếp cận hồ sơ này, nhưng theo những dữ kiện có được và phân tích ở trên, lẽ ra kết quả vụ án phải là:

    GCN và QĐ bồi thường là trái pháp luật, UBND cấp huyện có trách nhiệm thu hồi GCN và hủy bỏ QĐ bồi thường; ban hành QĐ bồi thường mới trong đó xác định đúng đối tượng bồi thường (điều này có thể sẽ làm thay đổi giá trị bồi thường, hỗ trợ) - ko được cấp lại GCN do đất đã thuộc dự án.

    các đồng thừa kế được nhận tài sản của mình theo tỷ lệ phù hợp căn cứ vào phần giá trị di sản do cha mẹ để lại, phần diện tích khai phá tăng thêm và giá trị tài sản, công trình trên đất... (có thể xác định được căn cứ theo hồ sơ cấp GCN do UBND huyện cung cấp) dựa trên số tiền bồi thường, hỗ trợ do UBND huyện chi trả (theo QĐ bồi thường mới).

    Cập nhật bởi tuphapq11 ngày 09/07/2018 10:26:33 SA
     
    Báo quản trị |  
  • #496426   09/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Thực ra thì Bản án phúc thẩm cũng có xem xét giá trị pháp lý của GCN và các Quyết định thu hồi, bồi thường của ông B nhưng bằng cách gián tiếp, cụ thể Bản án khằng định 11.800m2 là tài sản chung của 5 anh em chứ không phải là của riêng ông B nên phải chia là đã gián tiếp phủ nhận giá trị pháp lý của GCN và các Quyết định thu hồi, bồi thường của ông B. Tôi cũng cho rằng việc Tòa không tuyên hủy GCN và các Quyết định thu hồi, bồi thường của ông B mà vẫn đem chia 2 tỷ đồng giá trị QSDĐ 11.800m2 là sai pháp luật.

    Tuy nhiên, khi trao đổi với vị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa này về vấn đề vừa nêu thì được trả lời rằng thực tế GCN của ông B đã được thu hồi (khi bồi thường) và các Quyết định thu hồi, bồi thường cũng đã thực hiện xong, hơn nữa không có đương sự nào yêu cầu hủy các giấy tờ này mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung 2 tỷ đồng thì Tòa không cần phải hủy các giấy tờ đó. Tôi trao đổi tiếp "dù đương sự không yêu cầu thì Tòa vẫn có quyền áp dụng điều 34 BLTTDS 2015 để hủy, Tòa không hủy dẫn tới hậu quả cùng thửa đất 11.800m2 trị giá 2 tỷ đồng theo GCN và Quyết định thu hồi, bồi thường là tài sản riêng của ông B, còn theo Bản án đó lại là tài sản chung của 5 anh em nhưng tất cả đều có hiệu lực pháp luật thì làm sao thi hành án ?" thì vị Thẩm phán im lặng, không trả lời.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496436   09/07/2018

    mình nghĩ trường hợp này có căn cứ để đề nghị giám đốc thẩm vì phiên tòa phúc thẩm không có sự tham gia của UBND cấp huyện với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thiếu chứng cứ xác định giá trị đóng góp của các đồng thừa kế, và việc xử lý GCN, quyết định bồi thường chưa triệt để.

    hoặc khiếu nại, khởi kiện hành chính đối với GCN và QĐ bồi thường, có thể làm thay đổi giá trị bồi thường, hỗ trợ.

    vấn đề là thời hiệu để thực hiện tất cả những việc này.

    Cập nhật bởi tuphapq11 ngày 09/07/2018 12:38:13 CH
     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn tuphapq11 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496441   09/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    tuphapq11 viết:

    mình nghĩ trường hợp này có căn cứ để đề nghị giám đốc thẩm vì phiên tòa phúc thẩm không có sự tham gia của UBND cấp huyện với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thiếu chứng cứ xác định giá trị đóng góp của các đồng thừa kế, và việc xử lý GCN, quyết định bồi thường chưa triệt để.

    hoặc khiếu nại, khởi kiện hành chính đối với GCN và QĐ bồi thường, có thể làm thay đổi giá trị bồi thường, hỗ trợ.

    Bạn đã có cái nhìn toàn diện vấn đề. Có nhiều căn cứ để đề nghị Giám đốc thẩm Bản án này, tuy nhiên, như tôi đã nói, Bản án đã được các bên vui vẻ tự thỏa thuận thi hành xong, như vậy gần như sẽ không có đương sự nào làm Đơn đề nghị giám đốc thẩm, khả năng cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đề nghị giám đốc thẩm lại càng thấp. Đặc biệt, dù cho có Đơn đề nghị giám đốc thẩm thì với việc các đương sự đã tự thỏa thuận thi hành án xong, khả năng kháng nghị giám đốc thẩm cũng rất thấp.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (11/07/2018)
  • #496684   12/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    GIẤY TỜ VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

    Năm 1916 vợ chồng Ông Nguyễn Văn Ng và bà Nguyễn Thị K có tạo lập và đứng bộ phần đất thổ cư 3520m2. Chứng cứ là "Tờ bán đức Thổ" viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Pháp, có ký tên, đóng dấu chứng nhận của chính quyền phong kiến Nam triều và Nhà nước "Nam kỳ thuộc địa" lúc đó. Tháng 2/1993 con cháu của ông Ng, bà K thỏa thuận tương phân thừa kế  3520m2 đất này, lập thành Biên bản có UBND Xã chứng thực, theo đó phần của ông S được 720m2. Sau đó ông S thỏa thuận hoán đổi vị trí đất với một đồng thừa kế khác nên phần của ông S chỉ còn 448,8m2 và ông cho con trai là ông N sử dụng, đăng ký, kê khai cũng như đóng thuế cho Nhà nước.

    Năm 1997 một đồng thừa kế khác tranh chấp với ông S vì cho rằng 448,8m2 đất là của ông ta. Tháng 9/2005 UBND Quận ra Quyết định giải quyết, bác yêu cầu khiếu nại của ông D, công nhận ông S là người có quyền sử dụng 448,8m2 đất tranh chấp. Tháng 8/2006 UBND Tỉnh ra Quyết định giải quyết lần 2 có nội dung tương tự. Ông S ủy quyền cho con trai là ông N yêu cầu thi hành Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực của UBND Tỉnh và làm thủ tục xin cấp GCN đối với 448,8m2 đất đứng tên ông N.

    Ngày 01/11/2006 ông N nộp hồ sơ xin cấp GCN tại UBND Phường. Không một lần bị trả hồ sơ để sửa chữa hay bổ sung nhưng mãi tới ngày 19/7/2007 UBND Quận mới cấp GCN cho ông N. Phiếu chuyển thông tin địa chính thể hiện cấp GCN cho ông N theo khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 đối với 448,8m2 đất ở đô thị, gồm 200m2 trong hạn mức và 248,8m2 ngoài hạn mức. Ông N tìm đến một Văn phòng Luật sư và được tư vấn trường hợp của ông phải cấp GCN theo điểm c, điểm e khoản 1 hoặc khoản 2 chứ không phải khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 và theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP nếu cấp theo khoản 1, khoản 2 ông sẽ không phải nộp tiền sử dụng đất, còn cấp theo khoản 4 thì phải nộp tiền sử dụng đất cho 248,8m2 đất ở ngoài hạn mức. Ông N nhờ Văn phòng Luật sư đó cử Luật sư đồng hành cùng ông để khiếu nại yêu cầu phải cấp GCN cho ông theo khoản 1, khoản 2 vì ông có Giấy tờ do chế độ cũ cấp (tờ bán đức thổ) và giấy tờ hợp pháp về thừa kế (biên bản thỏa thuận tương phân thừa kế), tuy nhiên khiếu nại này kéo dài những 10 năm (2007 - 2017) mà vẫn chưa có hồi kết vì không giải quyết được 2 vấn đề tưởng chừng đơn giản nhưng thực tế lại rất phức tạp là :

    -"Tờ bán đức Thổ" năm 1916 có phải là một trong những "Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất." qui định tại điểm e khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003 hay không ?

    - Biên bản thỏa thuận tương phân thừa kế có chứng thực của UBND xã được lập vào tháng 02/1993 có phải là "giấy tờ hợp pháp về thừa kế" qui định tại điểm c khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003 hay không ?

    UBND Quận là cơ quan có thẩm quyền cấp GCN, tuy có quan điểm đồng tình trường hợp này phải cấp GCN theo khoản 1 hoặc khoản 2 LĐĐ 2003 nhưng lại không dám quyết định mà lại làm Công văn "xin phép" Sở tài nguyên & môi trường Tỉnh nhưng Sở trước sau chỉ im lặng, do đó khiếu nại của ông N đi vào bế tắc kéo dài.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (14/07/2018)
  • #496846   14/07/2018

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    LS trantamduc.1973 có thể gởi ảnh cái giấy "mua bán đức thổ" năm 1916 lên để mọi người xem với ạ, bản thân em chưa từng được thấy những giấy tờ liên quan tới đất đai như  vậy. Cám ơn LS nhiều ạ.

     
    Báo quản trị |  
  • #497275   18/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    "TỜ BÁN ĐỨC THỔ" :

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
  • #497276   18/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Không hiểu sao ảnh chụp đứng mà gởi lên đây nó lại nằm ngang, tôi sửa hoài vẫn không có kết quả, nhờ Min, Mod nào rành kỹ thuật quay ảnh lại dùm cho dễ nhìn, tiện thể hướng dẫn luôn cách gởi hình ảnh đúng kỹ thuật và cách khắc phục trường hợp ảnh nằm ngang khi gởi lên diễn đàn, xin cảm ơn.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
  • #497754   25/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Có nhiều qui định của pháp luật mới đọc qua tưởng đơn giản, dễ hiểu nhưng thực tế áp dụng lại phức tạp, khó hiểu. Mà đã khó hiểu thì mạnh ai nấy hiểu theo nhận thức của mình, dẫn tới tranh cãi, áp dụng không thống nhất. Trường hợp này, UBND Quận là cơ quan có thẩm quyền cấp GCN mà cũng không xác định được Biên bản thỏa thuận phân chia di sản do người dân tự lập, UBND xã chứng thực có phải là giấy tờ hợp pháp về thừa kế hay không, hoặc "Tờ mua bán đức thổ" lập năm 1916, được chính quyền lúc đó chứng thực có phải là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của chế độ cũ cấp hay không, "xin phép" thì Sở tài nguyên - Môi trường im lặng, nghĩa là Sở cũng không xác định được.

    Cơ quan có thẩm quyền không xác định được nhưng việc cấp GCN cho dân vẫn phải tiến hành, do đó những trường hợp như vậy thường "bị" cấp GCN theo khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003. Trước khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP ra đời và có hiệu lực thì được cấp GCN theo khoản 1, khoản 2 hay khoản 4 LĐĐ 2003 là như nhau vì người được cấp GCN đều không phải nộp tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, kể từ ngày Nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực thì người được cấp GCN theo khoản 4 chỉ được không nộp tiền sử dụng đất đối với diện tích trong hạn mức đất ở, phần vượt hạn mức đất ở phải nộp tiền sử dụng đất. Đây chính là vấn đề mà rất nhiều người dân không hiểu dẫn tới bị thiệt hại nặng nề về quyền lợi nhưng không hay biết.

    Tôi lấy trường hợp "Tờ mua bán đức thổ" này để chứng minh, sau khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực, nếu 3520m2 đất thổ cư này được cấp GCN là đất ở đô thị theo khoản 1 hoặc khoản 2 điều 50 LĐĐ 2003 thì toàn bộ 3520m2 không phải nộp tiền sử dụng đất, nhưng nếu cấp theo khoản 4 thì chỉ được không nộp tiền sử dụng đất đối với 200m2 (hạn mức đất ở tại Quận), còn lại 3320m2 phải nộp tiền sử dụng đất bằng 50% giá đất theo bảng giá đất của Nhà nước, ví dụ phần đất này nằm ở vị trí có giá Nhà nước qui định là 8,8 triệu/m2 thì người sử dụng đất phải nộp 4,4 triệu x 3320m2 = 14.608.000.000 đồng.

    Rõ ràng hậu quả của việc không xác định được những loại giấy tờ về QSDĐ là rất nặng nề nhưng các nhà làm luật chỉ qui định chung chung thay vì phải  liệt kê cụ thể những giấy tờ nào là giấy tờ hợp pháp về thừa kế hoặc giấy tờ nào là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của chế độ cũ cấp được xem là giấy tờ về QSDĐ qui định tại khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (28/07/2018)
  • #497755   25/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Công văn của UBND Quận :

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (28/07/2018)
  • #497979   28/07/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    Có những việc nói ra nhiều người không tin bởi có vẻ phi lý, ví dụ trường hợp trên đây, nếu không chụp ảnh Công văn của UBND Quận "xin phép" Sở TNMT và VPĐKĐĐ về việc cấp GCN thì sẽ có bạn không tin rằng một cấp chính quyền luật định có thẩm quyền cấp GCN (UBND Quận) lại phải "xin phép" cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính quyền cấp trên (Sở TNMT), thậm chí là "xin phép" Đơn vị sự nghiệp công lập (VPĐKĐĐ) chấp thuận cho mình cấp GCN theo điều này, khoản nọ. UBND Quận đã khẳng định trường hợp này cấp GCN theo khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003 thì tại sao không thực hiện việc cấp giấy theo thẩm quyền Luật định của mình mà phải "xin phép" Sở TNMT và VPĐKĐĐ ? Đó là do "bệnh sợ trách nhiệm" vì UBND Quận hiểu rõ cấp giấy theo khoản 1 người được cấp giấy sẽ không phải nộp tiền sử dụng đất (một khoản tiền rất lớn như đã chứng minh nên có gì sai sót dễ bị ghép "tội" làm thất thu ngân sách Nhà nước). Tuy nhiên, tới lượt mình, Sở TNMT và VPĐKĐĐ cũng thừa biết điều đó, tất nhiên họ cũng không lạ gì sự "khôn ngoan" của UBND Quận muốn đẩy quả bóng trách nhiệm cho họ nên cách "đối phó" tốt nhất là im lặng chứ dại gì lên tiếng "cho phép" để có rủi ro thì phải gánh lấy hậu quả. Người dân phải chịu mọi sự phiền toái từ việc đùn đẩy trách nhiệm này của các Cơ quan Nhà nước.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    ntdieu (28/07/2018) nguoinhaque009 (28/07/2018)
  • #497982   28/07/2018

    ntdieu
    ntdieu
    Top 10
    Male
    Dân Luật bậc 1

    Đồng Nai, Việt Nam
    Tham gia:11/02/2009
    Tổng số bài viết (14968)
    Số điểm: 100035
    Cảm ơn: 3515
    Được cảm ơn 5369 lần
    SMod

    Thêm 1 ví dụ nữa về việc không dám nhận trách nhiệm

    1 văn bản của UBND tỉnh Đồng Nai từ năm 2016, đến nay gần 2 năm rồi mà UBND TP Biên Hòa vẫn không biết đó có phải là thông báo thu hồi đất hay không. Mà chuyện lạ là nếu không biết sao ko đi hỏi chính nơi ban hành văn bản là UBND tỉnh Đồng Nai, mà lại đi hỏi Sở TNMT ?

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn ntdieu vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (28/07/2018) TranTamDuc.1973 (30/07/2018)
  • #498001   28/07/2018

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    Cuối cùng thì việc khiếu nại của ông N tới nay vẫn bế tắc sao LS trantamduc.1973?

     
    Báo quản trị |  
  • #498500   01/08/2018

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1120 lần
    Moderator

    nguoinhaque009 viết:

    Cuối cùng thì việc khiếu nại của ông N tới nay vẫn bế tắc sao LS trantamduc.1973?

    Sau khi "xin phép" nhưng không được phản hồi,  UBND Quận trả lời ông N rằng việc cấp GCN cho ông theo khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 là đúng pháp luật ! Dù đã rất mỏi mệt nhưng ông N vẫn muốn tiếp tục khiếu nại lên cấp cao hơn hoặc khởi kiện hành chính nên ông tìm Luật sư khác, chuyên về đất đai để nhờ hỗ trợ pháp lý.

    Đọc hồ sơ xong, vị Luật sư hỏi và được ông N xác nhận mục đích là muốn không phải nộp tiền SDĐ. Vị Luật sư tư vấn cho ông N dừng việc khiếu nại cấp GCN sai điều khoản và cứ nộp Phiếu chuyển thông tin địa chính (xác định cấp GCN theo khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003) cho Chi cục thuế Quận. Một tuần sau Chi cục Thuế ra Thông báo ông N phải nộp 597.120.000 đồng tiền sử dụng đất cho 248,8m2 đất ở vượt hạn mức (giá đất 4,8 triệu/m2 và phải nộp 50%). Vị Luật sư hướng dẫn ông N khiếu nại Thông báo nộp tiền SDĐ này.

    Vị Luật sư cho rằng ông N nộp hồ sơ xin cấp GCN ngày 01/11/2006, không bị trả hồ sơ lần nào nhưng mãi tới ngày 19/7/2007 khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP ra đời và có hiệu lực mới cấp GCN thì phải áp dụng khoản 3 điều 4 Nghị định này để xác định nghĩa vụ tài chính, theo đó "nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước của người nộp hồ sơ được xác định tại thời điểm đã nộp đủ hồ sơ hợp lệ". Căn cứ khoản 4 điều 4 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ được xác định căn cứ vào sổ tiếp nhận hồ sơ hoặc giấy biên nhận hồ sơ, ông N có giấy biên nhận hồ sơ đề ngày 01/11/2006 thì thời điểm ông N nộp đủ hồ sơ hợp lệ là ngày 01/11/2006. Như vậy, nghĩa vụ tài chính của ông N phải được xác định theo qui định có hiệu lực tại thời điểm 01/11/2006, mà tại thời điểm này không có Văn bản qui phạm pháp luật nào qui định phải nộp tiền SDĐ khi được cấp GCN theo khỏan 4 điều 50 LĐĐ 2003, do đó ông N không phải nộp tiền SDĐ, việc Chi cục thuế căn cứ điểm a khoản 1 điều 14 Nghị định 84/2007/NĐ-CP để buộc ông N phải nộp tiền SDĐ cho phần diện tích vượt hạn mức là áp dụng sai pháp luật.

    Chi cục thuế thì cho rằng khoản 3 điều 4 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP chỉ qui định phải áp dụng giá đất tại thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ để tính tiền SDĐ chứ không qui định phải áp dụng pháp luật tại thời điểm nộp hồ sơ hợp lệ để xác định nghĩa vụ tài chính (chủ yếu là tiền SDĐ). Vị Luật sư phản bác rằng hiểu như vậy là cố tình hiểu sai qui định pháp luật, đồng thời yêu cầu Chi cục Thuế ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại để có cơ sở khởi kiện án hành chính. Tuy nhiên, sau khi "thỉnh thị" ý kiến cấp trên, Chi cục Thuế có Công văn đề nghị Phòng TNMT Quận xác nhận có hay không việc chậm trễ cấp GCN cho ông N để làm căn cứ xác định nghĩa vụ tài chính. Đương nhiên Phòng TNMT Quận phải xác nhận đã chậm trễ vì điểm c khoản 2 điều 136 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP qui định thời gian cấp GCN cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại Phường chỉ có 55 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ trong khi hồ sơ của ông N phải hơn 210 ngày mới được cấp GCN.

    Cuối cùng, căn cứ công văn xác nhận chậm trễ cấp GCN của Phòng TNMT Quận, Chi cục thuế đã xác định nghĩa vụ tài chính cho ông N theo hướng ông không phải nộp tiền SDĐ cho 248,8m2 vượt hạn mức đất ở, tức không phải nộp 597.120.000 đồng, vụ việc kết thúc vào những ngày cuối cùng của năm 2017, tức chỉ vài tháng khiếu nại tại Chi cục Thuế.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (01/08/2018)