GIẤY TỜ VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Năm 1916 vợ chồng Ông Nguyễn Văn Ng và bà Nguyễn Thị K có tạo lập và đứng bộ phần đất thổ cư 3520m2. Chứng cứ là "Tờ bán đức Thổ" viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Pháp, có ký tên, đóng dấu chứng nhận của chính quyền phong kiến Nam triều và Nhà nước "Nam kỳ thuộc địa" lúc đó. Tháng 2/1993 con cháu của ông Ng, bà K thỏa thuận tương phân thừa kế 3520m2 đất này, lập thành Biên bản có UBND Xã chứng thực, theo đó phần của ông S được 720m2. Sau đó ông S thỏa thuận hoán đổi vị trí đất với một đồng thừa kế khác nên phần của ông S chỉ còn 448,8m2 và ông cho con trai là ông N sử dụng, đăng ký, kê khai cũng như đóng thuế cho Nhà nước.
Năm 1997 một đồng thừa kế khác tranh chấp với ông S vì cho rằng 448,8m2 đất là của ông ta. Tháng 9/2005 UBND Quận ra Quyết định giải quyết, bác yêu cầu khiếu nại của ông D, công nhận ông S là người có quyền sử dụng 448,8m2 đất tranh chấp. Tháng 8/2006 UBND Tỉnh ra Quyết định giải quyết lần 2 có nội dung tương tự. Ông S ủy quyền cho con trai là ông N yêu cầu thi hành Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực của UBND Tỉnh và làm thủ tục xin cấp GCN đối với 448,8m2 đất đứng tên ông N.
Ngày 01/11/2006 ông N nộp hồ sơ xin cấp GCN tại UBND Phường. Không một lần bị trả hồ sơ để sửa chữa hay bổ sung nhưng mãi tới ngày 19/7/2007 UBND Quận mới cấp GCN cho ông N. Phiếu chuyển thông tin địa chính thể hiện cấp GCN cho ông N theo khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 đối với 448,8m2 đất ở đô thị, gồm 200m2 trong hạn mức và 248,8m2 ngoài hạn mức. Ông N tìm đến một Văn phòng Luật sư và được tư vấn trường hợp của ông phải cấp GCN theo điểm c, điểm e khoản 1 hoặc khoản 2 chứ không phải khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 và theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP nếu cấp theo khoản 1, khoản 2 ông sẽ không phải nộp tiền sử dụng đất, còn cấp theo khoản 4 thì phải nộp tiền sử dụng đất cho 248,8m2 đất ở ngoài hạn mức. Ông N nhờ Văn phòng Luật sư đó cử Luật sư đồng hành cùng ông để khiếu nại yêu cầu phải cấp GCN cho ông theo khoản 1, khoản 2 vì ông có Giấy tờ do chế độ cũ cấp (tờ bán đức thổ) và giấy tờ hợp pháp về thừa kế (biên bản thỏa thuận tương phân thừa kế), tuy nhiên khiếu nại này kéo dài những 10 năm (2007 - 2017) mà vẫn chưa có hồi kết vì không giải quyết được 2 vấn đề tưởng chừng đơn giản nhưng thực tế lại rất phức tạp là :
-"Tờ bán đức Thổ" năm 1916 có phải là một trong những "Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất." qui định tại điểm e khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003 hay không ?
- Biên bản thỏa thuận tương phân thừa kế có chứng thực của UBND xã được lập vào tháng 02/1993 có phải là "giấy tờ hợp pháp về thừa kế" qui định tại điểm c khoản 1 điều 50 LĐĐ 2003 hay không ?
UBND Quận là cơ quan có thẩm quyền cấp GCN, tuy có quan điểm đồng tình trường hợp này phải cấp GCN theo khoản 1 hoặc khoản 2 LĐĐ 2003 nhưng lại không dám quyết định mà lại làm Công văn "xin phép" Sở tài nguyên & môi trường Tỉnh nhưng Sở trước sau chỉ im lặng, do đó khiếu nại của ông N đi vào bế tắc kéo dài.
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557
231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM